Vậy là thập niên 1960 chính thức khép màn sau biến cố Tết Mậu Thân năm 1968 và chuyến du hành lịch sử của phi thuyền Apollo 11 lên mặt trăng ngày 20 tháng 7 năm 1969. Vẫn còn đó trong ký ức hình ảnh cả nhà tôi ngồi dán mắt vào màn ảnh truyền hình để xem cú đáp ngoạn mục của phi thuyền đổ bộ "Eagle" đang được phát trực tiếp trên băng tầng số 11 của đài AFVN Mỹ. Sau ngày đó ở nhà cũng như ở trường, tôi toàn nghe người ta bàn tán sôi nổi chuyện con người đã chinh phục Nguyệt Cầu! Câu nói của phi hành gia Neil Armstrong: "One small step for man, one giant leap for mankind" đã trở đi vào lịch sử. Thêm một chút thông tin bên lề cho những ai yêu thích truyện tranh Pháp, Bỉ: Phi hành gia Xỉ Trum "Le Cosmoschtroumpf" do họa sĩ Peyo sáng tác đã được nhà xuất bản Dupuis phát hành ngay trong năm sau đó (1970). Ngoài ra tuần báo Paris-Match số 1073, phát hành ngày 29 tháng 11, năm 1969 cũng có đăng một phóng sự truyện tranh ngắn, gồm 4 trang về chuyến du hành mặt trăng của phi thuyền Apllo 12 do cha đẻ của Tintin, họa sĩ danh tiếng Hergé vẽ.
(Trong hình là tiệm bánh Trung Thu Đông Hưng Viên nổi danh một thời ở Sài Gòn. Hình này có lẽ được chụp vào dịp Tết Trung Thu năm 1969 vì có hình 3 phi hành gia Apollo 11 của Hoa Kỳ bên trên cửa hiệu để quảng cáo.)
Cũng không thể không nhắc tới Đại Hội Nhạc Trẻ Woodstock tại Bethel, New York, Hoa Kỳ tháng 8 năm 1969. Đây là dịp để giới trẻ Mỹ chạy trốn nổi ám ảnh của chiến tranh Việt Nam và tạm quên đi những bi kịch từ phong trào đấu tranh nhân quyền.
Cư Xá Kiến Thiết Thủ Đức
Mùa hè năm 1970, ba tôi được thuyên chuyển từ trường Bộ Binh Thủ Đức về tiểu đoàn 18 tiếp vận, sư đoàn 18 bộ binh, bộ tư lệnh đặt tại Xuân Lộc, tỉnh lỵ tỉnh Long Khánh. Gia đình tôi vì vậy phải dọn ra khỏi quân trường và dời về cư xá Kiến Thiết Thủ Đức, nằm sát ngã tư Thủ đức và xa lộ Biên Hòa. Ngã tư này được bao quanh bởi: Bộ chỉ huy Tuần Lưu Xa Lộ (trực thuộc Cảnh Sát Quốc Gia) và trại Cảnh Sát Dã Chiến ở phía Đông Bắc, Cư xá Kiến Thiết Thủ Đức ở phía Đông Nam, Nhà Máy Nước Thủ Đức ở phía Tây Bắc và Làng Đai Học Thủ Đức ở phía Tây Nam.
(Hình chụp ngã tư Thủ Đức nằm trên xa lộ Biên Hòa năm 1961. Đó cũng là năm mà xa lộ Biên Hòa được hoàn thành bởi hảng thầu RMK-BRJ. Lúc này đã có thể nhìn thấy khu nhà song lập của cư xá Kiến Thiết Thủ Đức trong khi Trụ sở của Tuần Lưu Xa Lộ và doanh trại Cảnh Sát Dã Chiến vẫn chưa được xây dựng. Góc trên bên phải của ảnh chụp cho thấy 3 trục đường chính dẫn vào cư xá: Quang Trung, Trần Hưng Đạo và Lê Lợi.)
(Hình chụp ngã tư Thủ Đức nằm trên xa lộ Biên Hòa năm 1975. Lúc này đã có thể thấy trụ sở Tuần Lưu Xa Lộ và doanh trại Cảnh Sát Dã Chiến nằm ở góc Đông Bắc của ngã tư.)
(Ngã Tư Thủ Đức, Chợ Nhỏ, đằng xa trước mặt là nhà máy nước)
(Ngã ba RMK)
Tôi có một chút bỡ ngỡ khi dọn về cư xá Kiến Thiết Thủ Đức. Tôi có cảm giác thế giới tuổi thơ của mình như được mở rộng ra đến vô tận. Không còn công sự phòng thủ, lô cốt, hàng rào kẻm gai bao quanh khu phố, không còn lính tráng, quân cảnh hay sinh viên sĩ quan vừa chạy bộ vừa hát vang trên đường...Tất cả thật sự yên tĩnh! Bóng dáng xót lại duy nhất của những người lính là ở trên các vọng gác dọc bờ tường gạch cao đến 4 mét phân cách giữa khu gia cư và "Viện Bài Lao Ngô Quyền" (nơi điều trị bệnh lao và một số bệnh khác cho binh sĩ VNCH).
Sinh hoạt của con nít trong xóm tôi (xin tham khảo bản đồ cư xá Kiến Thiết bên dưới)
Buổi sáng, khu phố Huỳnh Thúc Kháng nơi tôi ở chỉ rộn ràng trong khoảng từ 7 giờ đến 7 giờ 30, khi mà bọn con nít chúng tôi tập trung hai bên đường nói cười rôm rã hay ăn vội bữa sáng. Bún riêu, bánh mì, xôi đậu, bắp chà... tất cả được trưng bày vô cùng hấp dẫn trên các quan gánh của các cô, các chị hàng rong. Rồi thì tiếng động cơ ầm ĩ của 2 chiếc "xe lam tháng" ghé vào rước đám học trò để đưa chúng đến trường, lấn át hết mọi tiếng động khác. Các chú tài xế xe lam đã thu "tiền tháng" trước, từ phụ huynh nên cứ đến giờ là tự động đưa, rước đám nhỏ. Các chú có trí nhớ rất tốt, biết đứa nào học trường nào, trường nào gần, trường nào xa mà sắp xếp chổ ngồi cho tiện việc lên xuống, chiều về bảo đảm rước đủ, không thiếu đứa nào. Chị hai học Trung học Thủ Đức và anh tư học trường Nam nên đi xe lam, anh ba chở tôi bằng xe của ảnh vì học cùng trường Võ Khoa, em gái tôi có hàng xóm sẵn lòng cho quá giang ra trường Bình Linh ở đầu cư xá vì họ có con học cùng trường. Ngoài các trường vừa kể, con nít trong xóm còn theo học tại trường TH Tăng Nhơn Phú, Notre Dame, Đức Minh...
Buổi xế chiều, khoảng 3 giờ, là lúc bọn nhóc trong xóm ùa ra đường, tụ họp lại thành từng nhóm để chơi các trò tùy theo sở thích hay lứa tuổi. Con gái thì mê nhảy dây, nhảy lò cò, banh chuyền, đánh đũa. Con trai thì bắn bi, dích hình, chọi hình, đá cầu...lớn hơn một chút thì chơi tán u, tạt hình bằng chàm, tán hình. Anh ba tôi có miếng chàm "tự chế" làm từ gạch bông rồi mài dũa kỷ lưỡng, bảo đảm vô địch cư xá! Tán hình là hình lính hoặc thú bằng nhựa, chọi mạnh vào tường cho văng ra, mấy con vượt mứt thi thua, con nào cán mứt hay gần mức nhất thì được chọi ăn xác mấy con kia, trúng con nào ăn con đó. Các anh chị lớn thì thích đánh cầu lông, bóng chuyền nhưng thỉnh thoảng thôi vì bài vở nhiều đâu rảnh như bọn tôi! Nói chung con phố trở nên sống động hẳn lên từ lúc 3 giờ nhưng đến 5 giờ 30 chiều thì đã có tiếng người lớn ơi ới gọi đám con nít về nhà tắm rửa, ăn cơm.
Buổi tối là lúc yên tĩnh nhất. Nhà nào cũng đóng cửa im ỉm vì cả nhà đang quây quần trong phòng khách để xem truyền hình. Hồi đó, tuy nhà nào cũng có Tivi nhưng chỉ có duy nhất một cái là khá lắm rồi, nên người lớn và trẻ em phải thống nhất giờ xem của mỗi bên. Con nít tụi tôi xem đài Mỹ (băng tầng số 11) hết 80 phần trăm thời lượng, 20 phần trăm còn lại dành cho đài Việt (băng tầng số 9). May mà mẹ tôi cũng thích xem đài Mỹ với chúng tôi. Tuy nhiên thứ bảy, chúa nhật, nếu có kịch Kim Cương hay Túy Hồng hoặc cải lương Dạ Lý Hương hay cải lương hồ quảng Minh Tơ thì mẹ và vú sẽ độc quyền chiếm lỉnh Tivi. Những lúc như vậy bọn con nít lại ra phố tán dóc, chơi trốn tìm, các anh lớn thì tập thể dục (work-out), kéo tay (arm wrestling), hít pa-ra-phít-x (xà đơn barre fixe) hay nhấc tạ (weight lifting) ở sân trước hai căn "nhà ma" (đây là 2 căn nhà vô chủ ở giữa phố nằm ẩn sau một hàng rào dâm bụt um tùm). Các chị lớn thường "hang out" (túm tụm lại) trong sân trước nhà tôi quanh một cái bàn nhỏ nhâm nhi cà phê phin do chị hai tôi pha, hay nhấm nháp cóc, ổi, xoài tượng chấm nước mắm đường, rồi tán chuyện bài vở, thầy cô, bạn bè, chăm sóc sắc đẹp, áo quần, giầy dép, nghệ sĩ, tài tử, chuyện con trai, chuyện con gái..., nói chung là đủ thứ chuyện trên đời! Vậy nhưng đừng tưởng trẻ con xóm tôi chỉ biết vui chơi, hưởng thụ. Chúng tôi cũng phải học bài, làm bài tập, học thêm, học hè, sinh hoạt hướng đạo, tôn giáo, thậm chí học nhạc, học đàn, và cả học võ nhu đạo và thái cực đạo nữa. Thời khóa biểu của chúng tôi cũng bận rộn lắm lắm!
Ngõ Tắt
Trời ban cho bọn con trai xóm tôi một thiên đường tuổi thơ tuyệt vời mà khó nơi đâu có được. Đó là một khu đất hoang rộng nhiều mẫu nằm ngay phía sau hai con đường Huỳnh thúc Kháng và đường Khổng Tử mà chúng tôi đặt cho tên gọi là "Khu Ngõ Tắt".
Khu ngõ tắt là một khu đất trống rộng lớn với nhiều bụi rậm um tùm và cây cao bóng mát. Nơi đây có nhiều nền nhà đổ nát với các giếng cạn bị người dân dùng làm nơi đổ rác, một vườn xoài vô chủ nằm cạnh viện bài lao Ngô Quyền và còn có hai căn biệt thự bỏ hoang với đầy đủ piscine (hồ tắm) và vườn cây ăn trái bao quanh nơi tiếp xúc với đường Trương văn Hải, lúc đó chỉ là một con đường đất đỏ chạy dài từ Hương Lộ 30 (Lê văn Việt ngày nay) cạnh hồ tắm Anh Đào, thẳng tắp xuống nhà máy dệt Phong Phú.
Ngõ tắt đã gắn bó với chúng tôi suốt quãng đời tuổi thơ. Mỗi tuần 6 ngày bọn nhóc chúng tôi xử dụng con đường mòn này để đến trường, khi thì đi bộ, lúc cưỡi xe đạp. Bận đi thì hối hả vì sợ trể giờ, lúc về thì thơ thẩn, nhỡn nhơ, tha hồ dạo chơi. Đất ở đây được bao phủ bởi cỏ may, cỏ mần trẩu, cỏ đuôi gà và cây mắc cở. Tôi nhớ cứ gặp cây mắc cở (hay hoa trinh nữ) là phải lấy tay hay cành cây nhỏ đụng vào nó cho các lá cây khép lại. Cỏ đuôi gà thì con nít thường nhổ lên rồi quật mạnh vào nhau, bông cỏ nào (hay còn gọi là gà) bị gãy hay đứt thì coi như là bị thua. Cỏ mần trầu thì chúng tôi hái về nhà, vặt các bông cỏ ra từng cánh có hình dáng như một con sâu rọm. Sau đó, đóng hai cây đinh lêm một mảnh gổ rổi tròng một cọng dây thun vào hai cây đinh này. Mỗi đối thủ sẽ đặt bông cỏ (gà) của mình lên một đầu dây thun. Mỗi bên dùng một miếng chàm (gạch, đá hay xi măng) chà mạnh lên đầu đinh bên mình. Sự ma sát làm run cọng thun và sóng dao động đẩy 2 con "gà" (bông cỏ) tiến thẳng vào nhau. Con nào bị húc văng khỏi sợi thun và rớt đài sẽ bị tuyên bố thua. Ngoài ra bọn con nít chúng tôi còn hay hái mấy trái ké đầu ngựa già màu nâu nâu để ném vào tóc mấy đứa con gái. Trái ké có vô số gai nhỏ nên sẽ bám cứng vào tóc và quần áo theo kiểu các tấm "velcro", rất khó mà gỡ ra được.
Ngõ tắt tự nó chỉ là một con đường mòn do bước chân người đạp chết cỏ tạo ra, đây cũng là giang sơn của những kẻ săn mồi tí hon, đó là "Con Cút"! Mặt đường đầy những lỗ nhỏ hình phễu (funnel) đường kính độ 5 centimetres và độ sâu tương đương. Đó là bẫy do các con cút làm ra để bắt những chú kiến vốn hay di chuyển băng ngang qua đường mòn. Một khi lọt vào các hố này, càng cố vùng vẫy hay bò ra thì bọn kiến sẽ càng bị tụt sâu xuống đáy phễu. Lúc đó, một đôi càng quái vật sẽ đột ngột vương lên từ dưới cát, quập lấy nạn nhân đáng thương và lôi nó chìm sâu xuống làn cát mịn, nơi nó sẽ biến thành một bữa ăn đầy dinh dưỡng cho con cút.
Con cút thật ra là ấu trùng của loài "kiến Sư Tử" (Antlion), một loại côn trùng có cánh giống như con chuồn chuồn. Bắt kiến thả vào các hang cút là một trò tiêu khiển của chúng tôi vào những buổi trưa trên đường tan học trở về nhà. Đôi khi tôi bắt gặp một con rắn đang cố gắng bò ngoằn ngoèo thật nhanh băng qua con đường mòn rồi chun vào miệng hang đen ngòm dưới một gò mối hay bụi cây gai. Tuy rất sợ rắn nhưng tôi luôn thích quan sát chúng.
Vườn xoài đầu ngõ tắt có độ hai mươi mấy gốc, xung quanh bao bọc bởi rào kẻm gai. Bọn nhóc chúng tôi thấy cũng thèm lắm, muốn hái trộm vì không thấy ai canh giữ. Tuy nhiên cỏ dại mọc cao, sợ rắn nên chẳng đứa nào dám leo vào. Lâu lâu có mấy đứa chăn bò gan góc vào được bên trong hái trái ăn ngon lành khiến chúng tôi thấy mà ganh tỵ.
Đi sâu thêm độ vài trăm thước thì có hai căn biệt thự bỏ hoang, sụp đổ hoàn toàn có lẽ do bom đạn chiến tranh. Căn bên phải có mấy cây ổi sẽ trái chín thơm lừng nhưng vào hái cũng khá vất vã, phải vạch những lổ hổng để chun qua rào kẻm gai, rồi lại phải len qua một hàng rào dăm bụt dầy đặc. Một khi đã vào được bên trong thì bạn sẽ thấy rằng bao nhiêu công sức bỏ ra đều xứng đáng. Ổi sẽ chín vàng ươm, nhiều trái chuyển sang màu đỏ hồng tỏa hương thơm ngát cả một vùng. Chim chóc xà xuống tranh ăn với chúng tôi kêu inh ỏi. Xung quanh các gốc cây, cơ man nào là ổi rụng dậy mùi men rượu. Chúng tôi thường bọc ổi vào trong áo hay mũ lưỡi trai đem ra một bãi trống ngồi thưởng thức những trái ổi sẽ nhỏ bằng ngón chân cái, ruột đỏ, ngọt lịm như đường! Ngoài các cây ổi, còn có nhiều cây khác, không rõ là cây gì do các thân cây đều trơ trọi và cháy nám đen. Giữa khoảng vườn rộng là hai nền nhà khá to bao quanh bởi mấy bức tường gạch cũng ám đầy khói đen đã sụp đổ gần như hoàn toàn. Căn cứ vào nền gạch bông với hoa văn đẹp và trang nhã, ta thấy chủ nhà lúc trước ắt phải là người rất khá giả.
Lại nói về căn biệt thự thứ hai, nó nằm phía bên trái, ở vị trí cuối đường mòn nơi giáp với con đường đất đỏ được ủi rộng thẳng tấp chạy từ hồ tắm Anh Đào đến tận xưởng dệt Phong Phú (nay là đường Trương Văn Hải). Vượt qua một hàng rào kẻm gai sụp đổ ta sẽ đến một hồ tắm lớn (piscine) hình chữ nhật giờ chỉ chứa toàn nước mưa và rong rêu, bèo bọt xanh rì. Xung quanh hồ là những giàn hoa thiên lý bằng xi măng vẫn còn đứng vững. Những cội hoa đã già cỗi nhưng cũng còn nở đầy hoa trắng và tím vô cùng đẹp. Nằm cách đó độ hai chục thước là dấu tích một ngôi biệt thự khang trang, bề thế mà tầng lầu đã xụp đỗ hoàn toàn chỉ còn trơ lại chiếc cầu thang. Tường gạch cháy nám với nhiều khung cửa kính vỡ nát cho thấy sự giàu có của chủ nhân ngày xưa . Chúng tôi ít khi khám phá ngôi nhà này do có nhiều rắn lục. Đối với bọn con nít chúng tôi khu vực nhà hoang (hay đôi khi gọi là "nhà ma") này là khu vực bí ẩn, ma quái và cũng là hấp dẫn nhất ngõ tắt.
Trò chơi "Combat"
Thỉnh thoảng vào ngày chúa nhật, bọn nhóc xóm tôi chơi trò "Combat" Mỹ đánh Đức trong khu vực ngõ tắt. Anh V. con bà Hai thủ vai chỉ huy Đức, cầm đầu môt nhóm ba, bốn đứa, còn anh T. nhà tôi thủ vai trung sĩ Mỹ Vic Morrow cầm đầu mấy đứa kia. Anh em tôi được tụi con nít trong xóm "ngưởng mộ" nhờ sở hữu hai chiếc máy truyền tin dân sự Walkie-Talkie hay còn gọi là radio. Cứ gắn pin vào, chỉnh tần số (channel) là có thể liên lạc. Máy có thể nghe rõ trong bán kính vài cây số, bên ngoài đồng trống và trong thời tiết tốt. "Vic Morrow" nhà tôi thường cử tôi đi trinh sát để nắm vị trí và tình hình đối phương rồi báo về để đơn vị phục kích địch. Nhờ vậy phe Mỹ cứ thắng Đức đều đều.
Nói về vũ khí mà hai bên được trang bị thì vô cùng "ô hợp". Từ súng trường tự động M16 và súng tiểu liên Thompson bắn bằng "pin nhà binh" hay "pin Con Ó" biết chớp đèn đỏ chói và kêu tạch tạch cho tới súng cây tự chế (miếng ván cắt thành hình cây súng với tay quay), hay mấy khẩu súng rouleau của cao bồi hoặc P38 ngắn nòng như trong show truyền hình "Hawaii Five-O" bắn pháo cuộn nổ chan chát.
Nói gì thì nói, không súng nào qua nổi "súng miệng". Để tuyên bố một chiến tích "diệt địch", bọn nhóc chúng tôi thường la lớn: "Ê, thằng D. chết rồi!", hay: "Ê, thằng Đ. chết rồi, sao còn chạy vậy mậy???". Bên kia cũng không vừa, đáp lại liền: "Chết đâu mà chết, bắn trật lất!" hay là: "Hổng chết, trúng tay bị thương thôi...Á, á, á!!!". Khác với trò chơi bắn trái trứng cá hay bắn bì, đối phương khi trúng đạn sẽ la: "Á!" hay "Ui da!" thật lớn rồi chấp nhận chết, bỏ ra ngoài ngồi, trò chơi bắn súng miệng này, phe địch thường "ăn gian" một cách hết sức trắng trợn và trơ trẽn! Tuy nhiên, lâu lâu cũng có những người hùng kiểu Jango, chấp nhận hy sinh trong danh dự. Đứa bị bắn trúng sẽ phóng cao lên, ôm ngực, trợn mắt, giãy dụa, kêu gào, rồi nhào lăn ra đất co giật, trào nước bọt, chết tức tưỡi trước sự ngưỡng mộ của đồng bọn: "Giống ghê!", "Gồ quá!"... Còn bên thắng cuộc sẽ nhào tới vỗ vai kẻ chiến thắng vừa đưa ngón tay cái lên: "O.k. number One!" hay: "Bắn số dzách!".
(Súng đồ chơi kiểu M-16 và Winchester mà chúng tôi xử dụng cũng na ná hai khẩu trong ảnh này.)
Mùa đá dế
Cứ mỗi năm hè đến, sau những cơn mưa đầu mùa, bọn trẻ chúng tôi lại háo hức đi bắt dế. Ngõ tắt hay các bãi cỏ hai bên các con mương trủng nước chạy dài dọc theo hai bên xa lộ Biên Hòa bất chợt trở thành thiên đường của dế! Hễ nghe tiếng dế gáy ở đâu là đám con nít lại nhào vào đó, vạch cỏ, vạch rơm, bắt dế. Đứa nào lanh mắt, lẹ tay thì bắt được "dế chiến". Dế lửa màu vàng như hổ phách, mập tròn và gáy to, nhưng thật ra con dế than "Cồ", màu đen tuyền như mực tàu, vừa gáy, vừa giương cặp "bàn nạo" khổng lồ ra dọa đối thủ mới chính là "cúp vàng" cho một cuộc thi săn dế.
Đôi khi ba tôi lấy xe chở chúng tôi ra xa lộ vào buổi tối, sau một cơn mưa để bắt dế bay xung quanh các cột đèn đường gần ngã tư Thủ đức, làng đại học, hay gần hảng thầu RMK. Các anh con các cậu, các dì từ dưới Cần thơ lên chơi mỗi hè cũng rất mê sinh hoạt này. Chiến lợi phẩm không chỉ có dế đá, nhiều khi còn có dế cơm và cà cuống. Dế cơm thì được nhồi một hột đậu phộng vào bụng rồi chiên giòn ăn hết xẩy. Còn cà cuống, mẹ tôi thường chiên lên ướp chút nước mắm và đường, rồi đem dằm nước mắm ớt để làm nước chấm ăn cơm thơm bát ngát luôn! Ôi, tuổi thơ thần tiên của chúng tôi, bây giờ tìm đâu thấy nữa!
Thật ra thì không nhất thiết phải cực khổ đi bắt dế, đứa nào có tiền nhiều thì có thể mua dế do mấy bác nông dân đem ra bán trước cổng trường học. Tiền nào của đó, dế mấy ổng bán vừa to vừa "chiến". Sau khi đem dế về nhà, chúng tôi có nhiều cách để nuôi và huấn luyện chúng. Có đứa thích lấy hộp thiếc đựng bánh Tây, đổ đất vào, dùng giấy cạc tông ngăn ra từng ô, mỗi ô nuôi một con dế. Dùng 2 ngón tay trỏ tạo một hang nhỏ trong đất cho dế ở, lại bỏ thêm mấy cọng cỏ non vào cho nó ăn. Có đứa thích nuôi dế trong lon thịt hộp cũ, mỗi hộp một con. Đi đâu thì mang bỏ vao hộp quẹt cây có lỗ thông hơi, mang trong túi áo, tối lại cho vào hộp lớn, để nó gần đầu giường để nghe tiếng gáy rả rít cả đêm. Các con dế sẽ được cho thi đấu với nhau để xếp hạng cao thấp. Bọn nhóc dùng một cọng tóc quấn váo một cây chân nhang để "ráy" hai cọng râu của dế cho nó nổi khùng lên trước khi giương "bàn nạo" lên lao vào đối thủ. Con thua thường bỏ chạy giống như kiểu đá gà. Sau khi thi đấu xếp hạng, "dế Nhất" và "dế Nhì" được nuôi trong hộp riêng, thực đơn đặc biệt sẽ có nhiều dưa leo và giá sống để tăng cường sức mạnh. Các "võ sĩ" này khi thích hợp, sẽ được đem ra "tử chiến" với dế của mấy đứa khác trong trường hoặc trong xóm. Qua kinh nghiệm cá nhân, tôi thấy dế càng to thì càng dể trở thành vô địch do hai càng nó to và mạnh và do con kia bị khớp trước kích thước của nó. Nếu đồng một cở thì chưa biết, hai con sẽ đấu dai hơn. Khi đó tùy hên xui, một con sẽ vì lý do gì đó bỏ chạy và dứt khoát không chịu đá nữa. Thường thì xác xuất dế than thắng dế lửa cao hơn với lại ngoài tự nhiên lúc đó dế than hiếm hơn dế lửa nên giá trị nó càng cao. Thường thì tụi con nít cưng dế chiến của mình lắm, nếu lỡ thua nhiều sẽ được thả trở về thiên nhiên cho nó chết già. Thế nhưng cũng có đứa ác, đem ra đá bắt xác. Các con dế thua xui xẻo, nếu bị gãy chân hay gãy càng sẽ bị hy sinh và trở thành "đồ ráy" cho dế đối phương.
Trở lại chuyện bắt dế, có khi sau cơn mưa, chúng tôi cố ý mở cửa sổ ra để dế tự động bay vào nhà. Nhưng tiếc là các con dế này thường nhỏ và dế mái nhiều hơn dế trống. Có khi dế đâu không thấy mà mối cánh lại bay vào nhiều vô kể. Mối bay đầy xung quanh các bóng đèn néon trong phòng khách là lúc anh em chúng tôi được chơi màn King Kong đại chiến máy bay. Cố thủ trên bộ divan kê sát vách, vừa la hét, vừa nhảy rầm rầm, anh em chúng tôi quơ mấy cây quạt "lá buôn" ào ào như các kiếm sĩ Nhật Samurai tiêu diệt hàng trăm máy bay địch (trong trường hợp này là bọn mối). Mối bị rụng cánh bò đầy dưới gạch, chúng tôi bị mẹ la cho một trận bèn dùng chổi quét hốt đem đổ ra đường. Không đầy năm phút sau, hàng chục con cóc từ đâu nhảy ra, đớp lia, đớp lịa mấy con mối tội nghiệp. Chúng tôi say mê quan sát cảnh tượng này và đặt tên cho nó là "Xe tăng diệt địch".
Những thứ con nít thích
Đồ chơi ngoại quốc: Đồ chơi hồi trước 1975 nhập vào Việt Nam phần nhiều đến từ Nhật Bản. Đồ chơi "Made In Japan" hoặc chế tạo hoàn toàn bằng kim loại, hoặc có chen lẫn một số bộ phận bằng plastic nhưng nói chung là có hình dáng và màu sắc, hình vẽ hấp dẫn và vận hành bằng dây thiều hay pin tròn 1.5V và pin vuông 9V. Các hình người mới đầu bằng thiếc, sau dần chuyền sang nhựa cứng và được sơn, vẽ tỉ mỉ. Chúng tôi và các đứa nhóc khác trong xóm có rất nhiều đồ chơi ngoại nhập, nào là xe tăng M-41, M-48, xe Jeep, xe cảnh sát, xe batman, xe chữa lửa, xe Matchbox, trực thăng Huey, phản lực F-111 cánh xếp, cho đến mô hình xe lửa với nhà ga và hành khách, phi thuyền không gian, robot biết đi, tàu chiến chạy được dưới nước... Em gái tôi thì có búp bê biết đi, biết nói và biết khóc. Ngoài ra còn có đủ loại súng đồ chơi con nít, từ súng lục cho tới súng trường, tiểu liên, xử dụng pin hoặc bắn pháo cuộn hay đầu đạn nhựa (plastic cap). Thằng T. bạn tôi có một bộ súng colt kiểu cowboy với cả dây nịt mang đạn cùng với hai khẩu súng trường Winchester bán tự động với cần lên đạn trông rất "gồ".
(Phản lực chiến đấu cơ F-111A cánh xếp vận hành bằng pin. Lúc nhỏ tôi từng có một chiếc như vầy)
Đồ chơi nội hóa: Đồ chơi sản xuất trong nước phần lớn làm bằng nhựa, bằng giấy, bao gồm: bi thủy tinh có màu để bắn bi, các bộ hình lính và thú nhựa thường đồng một màu, hình giấy để dích hình, dây thun, cầu đá, bông vụ, mặt nạ...
Truyện tranh, sách báo thiếu nhi: Truyện tranh có 3 loại: -Loại thứ nhất là truyện tranh rẽ tiền do họa sĩ trong nước sáng tác bao gồm kiếm hiệp, dã sữ, giang hồ, tiếu lâm, truyện nước ngoài can kê lại, và bán chạy nhất là truyện ma quái, nanh gút, máu me rùng rợn! Loại sách này nội dung sơ sài, có khi nhảm nhí, hình ảnh mờ nhạt và chỉ dày độ 14 đến 20 trang nên giá thành thấp chỉ độ 10đ đến 20đ- Loại thứ nhì là phóng tác truyện tranh Pháp, Bĩ hoặc Mỹ của nhà xuất bản Sách Vàng, Phong Phú hay Tin. Loại này có chất lượng nội dung và hình ảnh cao hơn, dày 46 cho tới 64 trang nên có giá cao hơn, từ 90đ cho tới 120đ. - Loại thứ ba là truyện tranh chính gốc của Pháp, Bĩ hoặc Mỹ như Tintin, Spirou, Johan et Pirlouit, Lucky Luke, Asterix et Obelix, Schtroumpfs, Chick Bill, Alix, Ric Hochet, Valerie, Jean Valhardy, Buck Danny, Tanguy et Laverdure, Batman, Superman, Spiderman, Tarzan, Mickey, Donald Duck.... Loại này dĩ nhiên hình ảnh, màu sắc tuyệt đẹp nên giá thành rất cao mà thật ra tôi cũng không biết là bao nhiêu. Phần nhiều truyện ở nhà là do ba tôi hay các anh chị lớn mua về hay do bạn bè họ tặng làm quà. Báo thiếu nhi thì tôi thích đọc tuổi hoa, thiếu nhi, thằng bờm, yết kiêu, tuổi thơ...Nhà tôi cũng có rất nhiều truyện Tuổi Hoa loại đỏ, xanh và tím mà riêng tôi thích nhất là hoa đỏ với những truyện phiêu lưu mạo hiểm của đôi bạn Khôi và Việt và các nhân vật trẻ khác. Các tác phẩm đắc ý nhất gồm: Tiếng chuông dưới đáy biển, bóng người dưới trăng, Con tàu bí mật, Hai tờ di chúc, Đoàn tàu ma, Căn nhà bí mật, Đôi mắt tử thần...Tủ sách Trăm Hoa thì có cuộc phiêu lưu, mạo hiểm của Tintin trong bộ truyện nhiều tập "Lạc trong không gian".
Bánh kẹo: Bánh Tây, kẹo mút, kẹo gói giấy kiếng hồi xưa đựng trong hộp thiếc với nhiều màu sắc, hình ảnh bắt mắt. Các loại bánh champagne, tai heo, bánh men, bánh gai, bánh thuẩn, bánh kẹp kem...được chứa trong các keo thủy tinh khổng lồ bày trên quầy. Kẹo bòn bon hình giống trứng chim với đủ màu sắc vui mắt, bên trong có caramel hay chocolat, loại mắc tiền còn có chút rượu mạnh bên trong, được chất đầy các máy bán tự động. Bỏ đồng bạc cắc vào khe nhận tiền, vặn một cái nút to bằng kim loại thì chiếc máy mà đôi khi có hình dáng của một con chim lớn, sẽ nhả hay đẻ ra một viên kẹo bòn bon. Nếu không phải màu mình muốn thì cứ bỏ thêm một đồng nữa để thử vận may. Tôi còn nhớ Sài Gòn cuối thập niên 60 đã có lác đác những máy bán hàng tự động (vending machine). Chúng tôi thường bỏ bạc cắc vào để mua kẹo cao su (chewing gums) hiệu Wrigley's có hình mũi tên đủ màu, đủ vị, nho khô hiệu Sun Maid trong hộp giấy màu đỏ hay kẹo viên sô cô la bọc đường đủ màu xanh, lam, đỏ, cam, vàng hiệu M&M's. Còn một số mặt hàng khác nữa mà tôi không nhớ hết vì lúc đó còn nhỏ. Chỉ nhớ mang máng ba tôi hay kêu chúng tôi mua đồ ăn vặt trước khi ông dẫn vào các rạp xi nê xem phim.
Nước giải khát: Trẻ con thế hệ chúng tôi ở trong miền Nam thích các loại nước uống theo trào lưu như là nước ngọt có ga của B.G.I. (Brasseries & Glassieres de L'indochine) do Pháp độc quyền sản xuất tại Việt Nam. Thích nhất là xá xị con cọp, tuy nhiên limonade, bạc hà, crème soda, cam vàng hay ananas màu xanh lá mạ, vị khóm cũng được con nít hết sức ưa chuộng. Rồi thì Coca Cola chai cao và chai lùn được ướp lạnh mà mỗi khi đi Sài Gòn, tôi thường hay mua từ máy bán hàng tự động, vốn có sẵn khe để khui nắp và các ống hút bằng giấy sáp (sang thập niên 70 mới phổ biến ống hút nhựa). Các loại xi-rô do B.G.I. sản xuất được làm thành đá bọc hay ăn với nước đá bào cũng thu hút vô số trẻ con Thời trước 75, nước "đá bọc" phổ biến vô cùng ở miền Nam. Xi rô, cà phê sữa, các loại chè đậu, sâm bửu lượng, nhản nhục, nước mía, hột é, sương sâm, sương xáo, rau câu được đựng trong bọc ni lông rồi ướp lạnh xuất hiện khắp nơi như một dạng nước giải khát thời thượng. Chúng tôi tiêu thụ đá bọc mỗi ngày vì má tôi lúc đó làm để bán cho học sinh và con nít trong xóm.
Cà rem (Ice Cream) và Dao Ua (Yaourt): Mẹ tôi cũng làm Yaourt để bán. Yaourt có màu trắng mịn được chứa trong các lọ thủy tinh nhỏ xinh xắn với nắp đậy bằng kim loại như một loại giải khát cao cấp. Nhà tôi cũng có bán cà rem cây nhưng muốn ăn cà rem chất lượng một chút thì có thể mua ở tiệm của ông Ngọc Cẩm ở gần nhà lồng chợ Kiến Thiết hay ngon và sang nhất là ở tiệm kem Bắc Cực (Pôle Nord) Sài Gòn.
Cờ, trò chơi "Board Games": Ngày xưa không thấy ai chơi "cờ vua" như sau 1975. Chúng tôi chỉ đánh cờ tướng và đánh rất sôi nổi. Phần lớn các loại board games lúc đó đều gọi là cờ. Các loại cờ con nít chúng tôi hay chơi là: Cờ Triệu Phú (Monopoly), Cờ Cá Ngựa (Petits Chevaux), Cờ Nhảy, Cờ Thú, Cờ Ca Rô (Tic-Tac-Toe), Cờ Domino,... Ngoài ra còn có (cờ) Lô Tô (Bingo), cũng như "Bầu Cua Cá Cọp" mà chúng tôi hay chơi vào ba ngày Tết. Đây cũng là thời gian duy nhất trong năm chúng tôi được ba, mẹ cho phép chơi bài Tây ăn tiền nhưng chỉ được chơi bài cào và xì dách mà thôi.
Trò chơi Thể Thao: Những khi cần vận động cơ thể, con nít chúng tôi có thể chơi đá cầu, đánh cầu lông, đánh bóng bàn, bóng chuyền, đá banh...
Xe đạp: Con nít cũng rất mê đạp xe và hay khoe nhau xe đạp mới của mình. Mới đầu chỉ có xe đầm và xe đòn vong, sang thập niên 70 thị trường xe đạp Việt Nam lại cho ra mắt "Xe đạp Mini". Xe mini (Wheelie Bike) có bánh xe đường kính nhỏ hơn xe đạp thường, yên ngồi thấp, nhưng tay lái thì cao, có khi rất cao mà con nít miền Nam đứa nào cũng mơ ước được sở hữu một chiếc vì nó là mốt thời thượng.
(Xe đạp Mini của Mỹ)
(Xe đạp Mini phiên bản Việt Nam được giới trẻ và học sinh ưa chuộng trước 1975)
(Xe đạp Mini được minh họa bởi họa sĩ ViVi trên trang bìa truyện Tuổi Hoa năm 1973)
Vô tuyến truyềnh hình hay Tivi (TV viết tắt của Television): Xóm tôi, nhà nào cũng có TV riêng nên không có cảnh người lớn và con nít trong xóm túm tụm lại xem TV "ké" ở một nhà nào đó. Cảnh này chỉ xảy ra khi gia đình tôi phải "hồi hương" về miền Tây sau năm 1975. Truyền hình ngày xưa phần nhiều giống như là một cái hộp gỗ vuông lớn, có khi đứng trên 4 cái chân cao, với một màn ảnh màu xám nhỏ nhắn và ba cái nút vặn hình tròn. Cái lớn bằng cái đít chai với nhiều con số là để dùng chọn băng tầng (đài), ba cái nút nhỏ bằng ngón tay, một cái điều khiển âm thanh, một cái để chỉnh sáng tối, cái còn lại chỉnh độ rõ nét. Cái Tivi nhà tôi hiệu Zenith của Mỹ màn hình 19 inch trắng đen với chất lượng hình ảnh cao. Lúc mới mua về đầu năm 1967, nó là một báu vật đối với chúng tôi vì nó tượng trưng cho văn minh nhân loại thời hiện đại. Ngày xưa điện còn yếu nên Tivi nào cũng cần gắn thêm một máy tăng áp (Survolteur). Ăng ten thì có khi dùng loại "tai thỏ" đặt ngay phía trên TV, nhưng chiếm đa số vẫn là loại ăng ten dạng "bàn cào" hay "răng lược" mà ta thấy mọc tua tủa trên các nóc nhà thời thập niên 60 cho tới 90. Hai băng tần truyền hình mà chúng tôi xem mỗi ngày là đài số 9 và số 11.
Đài số 9 hay còn gọi là Đài Truyền Hình Sài Gòn, phát hình lần đầu ngày 7 tháng 2 năm 1966 từ trên máy bay, cho đến ngày 25 tháng 10 năm 1966 thì mới chính thức lập cơ sở trên mặt đất. Đoàn cải lương Dạ Lý Hương với vở "Yêu người điên" do nghệ sĩ Hùng Cường và Bạch Tuyết thủ vai chính được thu hình và phát sóng đầu tiên. Tôi còn nhớ cảnh mẹ và vú ngồi dám mắt vào màn ảnh nhỏ theo dõi các tuồng cải lương của ban Dạ Lý Hương như: Yêu người điên, Yêu người say, Tiền rừng bạc biển, Tuyệt tình ca, Má hồng phận bạc, Cho trọn cuộc tình, Kim Vân Kiều...hay đoàn Thanh Minh Thanh Nga với Thành Được,Thanh Nga, Út Bạch Lan... trong các vở Tiếng hạc trong trăng, Mưa rừng, Nữa đời hương phấn, Sân khấu về khuya, Đôi mắt người xưa, Tấm lòng của biển...Gánh của Thanh Thanh Hoa và Nam Hùng cũng được vú và mẹ tôi hưởng ứng nhiệt liệt. Thập niên 70, do không mấy ái mộ một số nghệ sĩ trẻ, hai bà chuyển sang mê cải lương Hồ Quảng của đoàn Minh Tơ hay Huỳnh Long với các nghệ sĩ: Thanh Tòng, Thanh Bạch, Bạch Mai, Bạch Lê, Thanh Thế, Bửu Truyện...trong các vở tuồng như: Bao Công xử án Quách Hòe, Chung Vô Diệm, Triệu Tử Long đoạt ấu chúa, Tiết đinh San Phàn Lê Huê, Đắc Kỷ, Trụ Vương...Còn thoại kịch trên truyền hình cũng có nhiều ban, nhiều chương trình như: kịch Sống của Túy Hồng, kịch Vũ Đức Duy, kịch Kim Cương (Lá Sầu Riêng, Dưới Hai Màu Áo), chương trình kịch kinh dị Người Về Lúc Không Giờ của Thẩm Thúy Hằng, chương trình hài hước 45 phút chuyện vui của La Thoại Tân, kịch Quê Ngoại của Bắc Sơn. Có một show hành động cũng hay lắm do tài tử Trần Quang thủ vai chính, Đoàn Châu Mậu và Tâm Phan đóng vai phản diện (Quên mất tên rồi, tiếc ghê!). Ca nhạc và tạp lục thì có: ban Shotguns của Ngọc Chánh và các ban nhạc khác với sự xuất hiện của nhiều ca sĩ nhạc trẻ nổi tiếng như: Elvis Phương, Thanh Lan, Khánh Ly, Mai Lệ Huyền, Quốc Dũng và Thanh Mai, Lê Uyên Phương, Duy Quang, Thái Hiền, Tam ca Ba Con Mèo, 3 trái táo... Rồi thì Chương trình Hoàng Thi Thơ (nổi tiếng với nhạc phẩm Chuyện tình nàng trinh nữ tên Thi) gồm Sơn Ca, Họa Mi, Vũ sư Lưu Hồng, tay trống tí hon Hoàng Thi Thi..., Chương trình tạp lục của nghệ sĩ Tùng Lâm, Ảo thuật gia Bảo Thu, ảo thuật gia Z28, ban nhạc hài hước AVT và Tướng Sĩ Tượng, chương trình Trần Thiện Thanh với Phim Kịch "Tình Thiên Thu của Nguyễn Thị Mộng Thường". Ngoài ra còn có các chương trình cho thiếu nhi như: Thiếu nhi Tuổi Xanh của bà Kiều Hạnh, Đố Vui Để Học do giáo sư Cao Thanh Tùng dẫn chương trình, Thế Giới Trẻ Em do Giáo sư Lê Văn Khoa phụ trách (đây là 2 chương trình tôi thích nhất!), Học mà chơi, Chơi mà học. Thể thao thì có tường thuật các trận túc cầu (bóng đá) mà thường là giữa hai đội hàng đầu miền Nam lúc bấy giờ là Tổng Tham Mưu và Cảnh Sát Quốc Gia với các danh thủ Tam Lang, Thà, Vinh, Cang, Cù Sinh, Cù Hè, Ngôn, thủ môn Lâm Hồng Châu... (Cả Phạm Huỳnh Tam Lang và TM Lâm Hồng Châu đều là cư dân của cư xá Kiến Thiết Thủ đức trước 1975). Tôi từng say mê theo dõi các trận đấu với giọng tường thuật đầy sôi nổi, hào hứng của xướng ngôn viên Huyền Vũ nổi tiếng một thời. Sung sướng nhất là truyền hình thời đó có đảm trách tường thuật giải vô địch túc cầu thế giới năm 1974. Đặc biệt là trận chung kết giữa đội tuyển Tây Đức và Hòa Lan mà Đức thắng với tỉ số 2-1. Chương trình chiếu phim cũng rất hấp dẫn mà phần nhiều là phim truyền hình Pháp. Các phim chúng tôi ưa thích gồm có: Bóng ma trong viện bảo tàng, Kho tàng bí mật có các nhân vật Chú Ba Tô, 2 đứa cháu trai và gái cùng hai tên cướp sanh đôi vô cùng hài hước và không thiếu các pha hành động, mạo hiểm, Phim Hiệp Sĩ Lagardère do Jean Piat đóng đánh kiếm rất hay, phim hành động Bob Morane, một ký giả, kỷ sư kiêm chuyên viên vũ khí và võ thuật chuyên chống lại những thế lực tội ác trên khắp thế giới, Đời Phi Công (Les Chevaliers Du Ciel) với những cuộc phiêu lưu kỳ thú của hai chàng phi công lái phản lực cơ Mirage III của Pháp Tanguy và Laverdure. Thể loại hoạt hình thì Anime của Nhật chiếm ưu thế với các tập phim: Astroboy, Space Pirate Captain Harlock (Hải Tặc Không Gian), Sư tử Kimba... Hoạt hình Disney rất ít và chỉ xuất hiện trong chương trình Thiếu Nhi Lê Văn Khoa. Ngoài ra còn rất nhiều chương trình khác nữa mà tôi không thể nào nhớ hết nên chỉ xin kể ra trên đây những show mà anh em tôi thích xem thôi.
Đài số 11 hay còn gọi là đài Mỹ AFVN (American Forces Vietnam Network) có chất lượng hình ảnh và chương trình vượt trội đài Việt Nam số 9. Đài phát 100% bằng tiếng Anh chủ yếu để phục vụ quân nhân và viên chức Mỹ đang phục vụ tại Việt Nam. Tuy không hiểu hết ngôn từ trên màn ảnh nhỏ, nhưng các show truyền hình Hoa Kỳ vốn tràn ngập những tình huống và hành động, đã trở nên hết sức dễ hiểu và vô cùng hấp dẫn đối với giới trẻ miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ. Càng xem nhiều, vốn Anh ngữ đàm thoại của bọn con nít chúng tôi càng tiến bộ. Truyền hình cũng góp phần quảng bá văn hóa Hoa Kỳ đến với người dân Việt. Nó là con mắt thần giúp trẻ con chúng tôi nhìn ra thế giới bao la đầy sinh động, thấy được những cái đẹp đẽ, tươi sáng khác với khói lửa, bom đạn, chết chóc mà chúng tôi thấy hằng ngày. Muốn biết chương trình của đài Mỹ hay Việt, chỉ cần xem trên báo mỗi ngày vô cùng tiện lợi! Nếu lỡ có quên thì cũng đừng lo. Nhiều khi đang chơi đùa ngoài phố mà Tivi có phim hay lập tức có đứa trong xóm vừa chạy vòng quanh, vừa la lớn: "Có Batman!", "Có Combat!", "Có Jim West!"... Show thì nhiều vô số nhưng chỉ xin kể qua mấy cái mê nhất mà thôi: Batman, Combat (Chiến tranh), Star Trek (Lỗ Tai Lừa), Wild Wild West (Cao bồi), Voyage to te hbotton of the sea (phim tàu lặn), High Chaparral (Cao bồi), Mission Impossible (hành động phản gián), Hawaii Five-O (Cảnh sát hình sự), Gun Smoke (Cao bồi), Bonanza (Cao bồi), My Favorite Martian (Hài giả tưởng), Lost In Space (Lạc trong không gian), Get Smart (hài hình sự)...
(Chương trình Tivi Việt, Mỹ trên nhật báo ngày 9 tháng 11 năm 1971)
(Cái Tivi nhà tôi nhìn cũng tương tự cái này nhưng có cửa kéo phía trước)
Các cửa tiệm, quán ăn và chợ búa (xin tham khảo bản đồ cư xá Kiến Thiết)
Tôi thường thíc đạp xe long nhong khắp nơi để thể dục, xả stress hay mua hàng, làm việc lặt vặt cho mẹ tôi, đại khái là "run errands". Tôi cũng thích chở vú đi mua điểm tâm cho mẹ hay mua thực phẩm ở trong chợ Kiến Thiết và cả Chợ Nhỏ.
Chợ Kiến Thiết là một nhà lồng chợ tương đối nhỏ chỉ vừa đủ phục vụ cho người dân trong cư xá. Đầu nhà lồng có vài người bán rong đồ ăn vặt và có một xe bánh mì xá xíu của chú Ba, ông luôn ưu ái cho tôi thêm thịt, đồ chua và ớt vì tôi rất thích ăn cay. Bên trong có hai sạp bán thịt của chị Thẳng (mà vú tôi gọi là "con Ngay" do trùng tên với người đã khuất bên gia đình vú) và chị Bé. Nhà tôi luôn mua thịt của chị Thẳng mà thôi vì chị là người vui vẻ, thẳng thắn, bộc trực và luôn bán giá ưu đãi cho chúng tôi. Bên trong có một dì lớn tuổi bán cá cũng chọn chúng tôi là khách hàng đặc biệt. Rau củ thì có một ông người Bắc di cư rất vui tính, luôn có rau tươi và giá cả hợp lý. Đặc biệt cuối nhà lồng chợ có một căn tiệm lụp xụp của "Bà Tiều" chuyên bán hủ tíu, hoành thánh mì và bánh ướt chả lụa mà mẹ tôi rất mê. Tuần nào tôi cũng phải xách gà-mên (tiếng Pháp là Gamelle) đi mua hoành thánh mì và bánh ướt cho mẹ tôi hết bốn, năm lần!
(Cái gà mên của nhà tôi tương tự cái này nhưng đẹp hơn nhiều)
Quán Hùng Vương nằm ở đầu cư xá ngay góc đường Hùng Vương và Lê Lợi. Quán bán cà phê, điểm tâm, giải khát chuyên phục vụ người dân lao động, lính tráng và các bác phu xe lam. Tôi có uống cà phê, ăn cơm và hủ tiếu ở đây nhưng riêng món phở thì tôi tuyệt đốt trung thành với Tiệm phở Thanh Bình của mấy "chú Ba" trong chợ nhỏ. Có lẽ là người miền Tây tôi thích cái vị ngọt của nước phở người Hoa.
Hủ tíu Tôm Cua tuy chỉ mới mở đầu thập niên 70 nhưng thu hút rất nhiều thực khách, không chỉ cư dân Kiến thiết mà còn cả ở Thủ đức và Sài Gòn cũng đến đây ăn. Tô hủ tíu ở đây có tôm, có càng cua, thịt xá xíu, nước dùng trong và ngọt, đậm đà vị hải sản. Chú Nghĩa, bạn của ba tôi từ Sài Gòn vào ăn một lần là mê luôn. Quán này đã trở thành điểm ăn sáng chính thức trước khi khởi hành đi Vũng Tàu của ông ngoại và đại gia đình các Cậu mợ từ dưới miền Tây lên nghĩ hè mỗi năm. Mỗi lần đại gia đình chúng tôi ghé ăn là ngồi đầy quán, có khi phải đặt thêm bàn ra ngoài ngỏ. Xe hơi của chúng tôi, thường hai, ba chiếc, có khi bốn, phải đậu ngoài đường Trần hưng Đạo rồi cho mọi người đi bộ vào trong. Chúng tôi tuy ngồi hơi chật một chút nhưng thức ăn ngon, cà phê đậm đà, lại đông người cười nói xôn xao nên không khì rất vui tươi, nhộn nhịp.
Bánh mì/Tạp hóa Ngọc Cẩm nằm ngay tại góc Lê Lợi và Ngô Quyền (bây giờ chẳng biết còn không?).
Mới đầu ông Ngọc Cẩm, một người bạn của ba tôi, mở một ki-ốt (kiosque) ở trên đường đi chợ nhỏ gần bức tường Ngô Quyền chuyên bán "bánh mì con cóc" nhét pâté, thịt nguội, hay gà chà bông là một món ăn tay cầm mới phát triển lúc bấy giờ. Khi món bánh mì "hạng sang" này bắt đầu nổi tiếng thì quán dời về địa điểm mới trong cư xá Kiến Thiết như nói ở trên rộng rải hơn với trang trí bắt mắt hơn. Lúc này, quán phát triển thành tạp hóa Ngọc Cẩm với gian bán bánh mì một bên. Mẹ tôi rất mê bánh mì con cóc, gà chà bông ở đây, tôi thì không. Tôi chỉ thích bánh mì ổ lớn nhét xá xíu hay thịt khìa của chú Ba ở đầu chợ. Tuy nhiên bánh mì xăng uýt và bánh mì ngọt tự làm của tiệm này thì tôi ủng hộ hết mình. Đủ loại bánh mì ngọt, đủ loại hình dáng tròn, dài hay sừng trâu, đủ màu sắc và đủ các loại nhân, từ dừa tới kem vanilla, chocolat, hay custard. Tiệm còn có tủ cấp đông chứ nhiểu loại cà rem cây với hương vị khác nhau. Giàn keo thủy tinh khổng lồ chứa đủ loại bánh tây, kẹo tây vô cùng ấn tượng án ngử lối đi vào làm con nít tụi tôi lúc nào cũng thèm rõ dãi. Bên trong có máy bán kẹo bòn bon, có đủ loại chewing gum Mỹ và Nhật. Tôi thích kẹo cao su Nhật Bản, màu sắc tươi mát, hương vị ngọt ngào lại được bao bọc bằng một lớp giấy có stickers của các nhân vật Anime như Astroboy, Robot Ai Cập, Người Điện Quang, Sư Tử Kim Ba... Tôi thường đặt stickers lên mặt phẳng như plastic, kim loại hay giấy rồi lấy móng tay cà vào một hồi, lột phần giấy kiếng trong ra, sẽ để lại hình vẽ màu rất đẹp. Con nít chúng tôi có thú vui sưu tầm các hình ảnh đẹp từ chewing gum trong một cuốn sổ hay vở học trò để thỉnh thoảng đem ra so với nhau xem đứa nào có nhiều hình đẹp và hiếm nhất. Ngọc Cẩm còn bán đủ loại đồ chơi con nít gồm cả bông vụ, cầu đá, mặt nạ người dơi, hình dích. Đậu, đường và một số gia vị thông dụng cũng có ở đây. À xém chút quên! Ngọc Cẩm còn có một selection của hạt cà phê rang. Bạn có thể mua nguyên hạt về nhà xay hay ông chủ có thể xay tại chổ cho bạn xem rồi cho vào bịt giấy bốc hơi thơm lừng. Ngoài ra Tiệm cũng có bán xăng lẻ bơm ra từ mấy thùng phuy màu đỏ chứa trong nhà kho nhỏ kế bên.
Tiệm Mỹ Hoa nằm trên đường Ngô Quyền, giữa đường Trần Hưng Đạo và đường Khổng Tử. Cô chủ tiệm cho biết tiệm không có tên nhưng trên cửa sổ phía trước có dán tấm bảng quảng cáo cho "Nước Mắm Mỹ Hoa" nên cư dân xung quanh gọi là tiệm Mỹ Hoa. Tiệm này lúc đầu là đại lý nước mắm Mỹ Hoa, sau chuyên về văn phòng phẩm như tập vở, học cụ nhưng cũng kiêm luôn đậu, đường và nhiều loại gia vị khác và dĩ nhiên là cả nước mắm tĩn, nước mắm chiếc ra từ thùng thiếc 20 lít hay nước mắm trong chai thủy 1 lít. Tôi còn nhớ mỗi lần sắp tựu trường, anh chị em chúng tôi đều sắm sửa tập vở, giấy bao tập, nhản, vật liệu thủ công, bút, thước, chì màu và các loại học cụ khác tại đây. Không khí vô cùng khẩn trương, sôi nổi. Tôi mãi không quên mùi tập giấy 200 trang mới thơm tho và mùi các cục gôm (tẩy) mới thơm như mùi kẹo.
Tiệm ông bà cụ là tên chúng tôi đặt cho một tiệm tạp hóa không bảng hiệu khác của hai ông bà cụ người Bắc di cư đứng bán, nằm trên đường Lê Lợi, khoảng 50 mét phía Bắc của Ngọc Cẩm. Tiệm chuyên bán đồ dùng trong nhà: ghế cốc, lồng bàn, chổi, lò than, ghế mây, bóng đèn, thau, gáo, ca nhựa, nồi niêu, soong chảo, nồi nhôm...
Tạp Hóa Hùng Vương là một tiệm tạp hóa với đúng nghĩa của nó. Tiệm bán đủ mọi thứ linh tinh nhưng đặc biệt nhất là giàn Tương, chao và đồ ăn chay ở đây được coi là "số Một".
Bà bán xôi dọn hàng ngay trước nhà riêng của mình nằm ngay góc Trần Hưng Đạo và Ngô Quyền nhìn qua bên hông chợ Kiến Thiết. Một mình bà "quản lý" hết một hơi bốn, năm thau nhôm loại lớn hết cở đơm đầy xôi gấc, xôi vò, đậu xanh, đậu đen, đậu phọng, đậu trắng, lá cẩm và bắp chà. "Bà Xôi" tướng tá to lớn, phúc hậu, hơi nặng nề nhưng vô cùng lanh lẹ. Tay bà xúc xôi, gói xôi thoăn thoắt và điệu nghệ đúng là danh thủ nổi tiếng khắp cư xá. Điểm đặc biệt của nơi đây là hầu hết các gói xôi (trừ xôi vò và xôi gấc) đều được "điểm tô" bằng mấy muỗng xác dừa, đậu phọng rang và muối mè bên trong và còn được quấn xung quanh bằng một lớp bánh phồng thơm phức nữa.
Bà Sáu bán chuối là hàng xóm của chúng tôi. Nhà bà nằm gần đầu đường Huỳnh Thúc Kháng với sân trước rộng rãi thoáng mát. Một chiếc xe đẩy lớn có mái che, bày đủ loại trái cây mà nhiều nhất là chuối, bánh kẹo đồ tráng miệng và ăn vặt bình dân, nước ngọt BGI, La-de (La Bière) "Con Cọp" chai lớn 750ml cho tới "bia 33" chai 500ml đặt trong các thùng xốp ướp lạnh ngự trị ngay giữa sân. Hai buồng chuối lớn treo lủng lẳng trên nhánh cây to trước cửa nhà đã mang lại cho bà Sáu cái thương hiệu "Bà Sáu Bán Chuối".
Nhà Thờ Giáo Sứ Thánh Tâm nằm tại góc đường Trần Hưng Đạo và Hai Bà Trưng, xeo xéo trường Tiểu Học Hoa Lư. Có những Noel tôi theo mấy đứa cùng xóm đến đây để xem thánh lễ dù rằng tôi không có đạo. Cư xá Kiến Thiết có ngôi chùa nào hay không? Tôi không biết! Tôi nhớ có thấy một ngôi đình hay chùa gì đó với vẻ ngoài khá khiêm tốn ở gần xóm giếng thì phải.
Trường Học thì chỉ có trường tiểu học tư thục Bình Linh do các bà Sơ điều hành nằm gần xa lộ Biên Hòa mà em gái tôi theo học và trường tiểu học công lập Hoa Lư. Tôi nhớ mang máng trước 75, trường Hoa Lư chỉ có 3 dãy trệt bao quanh một sân chơi rộng rải có cột cờ. Đây cũng là nơi ba tôi và nhiều sĩ quan khác sinh sống trong cư xá đến trình diện để đi học tập cải tạo sau 30 tháng 4, năm 1975.
Ngoài ra còn rất nhiều lớp dạy kèm sinh ngữ, toán lý hóa, lớp dạy hè cho đủ mọi lứa tuổi từ trường Mẫu Giáo của Cô Bảy nằm ngay góc Khổng Tử và Huỳnh thúc Kháng, lớp dạy kèm lớp năm cho tới lớp tám của Cô Trang trong xóm cho tới trung tâm Toán Lý Hóa của Anh Điềm ở gần tạp hóa Ngọc Cẩm...
Nhà Máy Bột Giặt Viso nằm ngay giao điểm của đường Hai Bà Trưng và Phan Chu Trinh. Nhà máy nổi tiếng này có kiến trúc hiện đại và đồ sộ, là niềm tự hào và cũng là sinh kế của nhiều cư dân lao động ở Kiến Thiết và khu vực lân cận. Mỗi năm khi gió Tây Nam thổi lên là khu vực đường Huỳnh Thúc Kháng nơi tôi ở và vùng Ngõ Tắt được chứng kiến một khung cảnh vô cùng ngoạn mục. Hàng trăm, có khi là hàng ngàn tảng bong bóng xà phòng trắng xóa bay đầy bầu trời. Nhiều khối bọt khổng lồ bị hun nóng bởi ánh nắng mặt trời, vỡ ra từng miếng nhỏ và là đà hạ xuống các nóc nhà, ngọn cây và bải cỏ trông như tuyết rơi!
Người nổi tiếng sống trong cư xá Kiến Thiết Thủ Đức không nhiều nhưng tôi biết có: danh thủ bóng đá Phạm Huỳnh Tam Lang cùng vợ là nghệ sĩ cải lương Bạch Tuyết sống trong một ngôi nhà hai tầng trên đường Cô Giang và thủ môn lừng danh Lâm Hồng Châu của đội tuyển VNCH và đội tuyển Cảnh Sát Quốc Gia ở đầu phía Đông Bắc của cư xá mà tôi không còn nhớ tên đường.
Nhà tôi
Lúc mới dọn đến cư xá Kiến Thiết, chúng tôi ngụ tại số 366 đường Huỳnh Thúc Kháng. Năm 1974 thì dời sang số 362. Cả hai nơi đều có nhiều kỷ niệm gắn bó. Nhà củ có sân trước rộng trồng nhiều rau thơm và có một cây táo Thái Lan, nhiều trái và rợp bóng mát. Hàng rào cây thuốc rắn đan dày tạo nên sự riêng tư cần thiết. Tôi nhớ cứ đến Trung Thu là chị Hai tôi lại dọn bàn ghế ra bên ngoài hàng rào, sát lề đường. Chị treo nhiều lồng đèn dài theo hàng rào rồi thắp lên khiến không khí trở nên ấm áp và huyền ảo. Trên bàn chị bày bánh Trung Thu, bánh dẻo, bánh in xung quanh một ấm trà nóng thơm phức và nhiều tách nhỏ. Khi ánh trăng rằm tháng Tám lên cao trên bầu trời, các chị lớn trong xóm thường tụ tập lại bày trò chơi cho đám nhóc tụi tôi, dẫn chúng tôi đi rước đèn quanh xóm. Sau đó lại trở về nhà tôi để ăn bánh, uống trà, nghe kể chuyện Hằng Nga và Chú Cuội... Nhà mới khang trang hơn, có tường bao bọc xung quanh. Đằng trước có một cây mận xanh ngọt ơi là ngọt che phủ một phần sân thượng yên tĩnh. Đằng sau dãy nhà liên kế là một ngỏ nhỏ mà mọi người gọi là "Ngõ Sau". Ngõ Sau là nơi mà vào những ngày cận Tết các gia đình thường chẻ củi, nhóm bếp, nấu bánh chưng, bánh tét trong những chiếc nồi to.
Mỗi bữa trưa trời nắng tốt, tôi và ông anh thứ tư thường đâm một chén muối ớt thật cay, lựa mấy quyển truyện tranh ưa thích, khoác vào cổ chiếc ống nhòm nhà binh rồi trèo lên cây mận xanh. Kiến vàng cắn đau điếng nhưng riết rồi quen. Chúng tôi say mê bẻ mận, sau đó trèo lên sân thượng. Lên đến đây, bốn bề yên tỉnh, không ai nhìn thấy chúng tôi nhưng chúng tôi thì trông thấy hết. Ngồi vắt vẽo trên lan can sân thượng, chúng tôi vừa ăn mận chấm muối ớt, vừa đọc truyện tranh, vừa tán dóc. Mẹ tôi muốn anh em tôi thường xuyên kiểm soát lá cờ mà chính phủ bắt mỗi nhà phải sơn trên nóc để thỉnh thoảng máy bay quân đội lượn vòng kiểm soát. Tôi còn nhớ mấy anh phi công lái phi cơ quan sát "đầm già" cứ thấy hai đứa nhóc chúng tôi nhảy lưng tưng trên sân thượng, tay ngoắc lia lịa là cười toe toét đưa tay vẫy chào lại. Mấy ảnh sẽ đảo thêm một vòng xuống thật gần, thật thấp hù chúng tôi chơi. Từ trên sân thượng này chúng tôi cũng có thể quan sát máy bay khu trục bay đi ném bom rừng sát. Tuổi thơ là vậy hồn nhiên, vui tươi nhưng đôi khi chúng tôi thấy buồn man mác. Cuộc chiến rất thật đang xảy ra xung quanh chúng tôi và được nhai đi nhai lại trong các đoạn phim thời sự hằng đêm trên màn ảnh truyền hình làm chúng tôi nhiều khi thấy choáng ngợp.
(Mẹ tôi đang bồng em gái út đứng trước nhà. Đằng sau là cổng sắt, một phần sân thượng và cây mận.)
Nghỉ Hè
Thông thường nghỉ hè chúng tôi có thể đi nhiều nơi khác nhau nhưng do tính chất công việc của ba tôi chúng tôi không thể đi xa Sài Gòn lắm. Tuy vậy, gần như hè nào chúng tôi cũng đi "Cấp" nghỉ mát với ông, bà ngoại và gia đình cậu Tư, cậu Ba, ở khoảng một tuần, có khi một tháng do bà ngoại cần nằm lại dưỡng bệnh. Cũng xin nói thêm, hồi xưa người ta nói đi "Cấp" (đọc trại từ tên gọi Cap St-Jacques trong tiếng Pháp) chớ không ai nói đi Vũng Tàu.
Theo thói quen, ông ngoại hay viết thư trước cả tháng, thông báo ngày giờ sẽ lên nhà tôi cũng như thời khóa biểu cho thời gian lưu trú lại Vũng Tàu. Chúng tôi nôn lắm mỗi lần nhận được tin, nôn được gặp lại mấy anh, chị, họ còn nhiều hơn cả đi "Cấp"
Cậu Tư có chiếc Jeep dân sự nhưng có sắm thêm một chiếc Đa-Su (xe chở khách nhỏ 12 chổ hiệu Daihatsu rất phổ biến trước 1975) để đi đâu chở được nhiều con, cháu và hành lý. Thường Cậu Tư khởi hành từ trước lúc rạng đông và chạy liên tục, lên đến Thủ Đức là khoảng 1 giờ trưa. Cả nhà sẽ nghỉ một đêm, sáng hôm sau sẽ lên đường đi Vũng Tàu. Mỗi lần cậu từ Cần Thơ lên thì mẹ tôi phải mượn driveway nhà bác M. kế bên cho xe ba tôi đậu đỡ, còn 2 xe của cậu đậu trước nhà vì đường trong cư xá tương đối nhỏ.
Chiều hôm đó, các chị lớn thế nào cũng sẽ tổ chức một chương trình văn nghệ tạp lục thường niên. Chiếc đi-văng sẽ được dùng làm sân khấu. Một tấm màn vốn đã có sẵn phía trước đi-văng sẽ dùng làm màn sân khấu. Bàn trang điểm của chị hai tôi ở trên gác sẽ trở thành phòng hóa trang và tập tuồng. Các tiết mục sẽ được sắp xếp và dàn dựng chu đáo với một tờ prồ-gram (programme) được viết nắn nót bởi chị hai. Tất cả mọi thành viên con nít đều bắt buộc phải tham gia và đăng ký ít nhất một tiết mục. Một giờ trước khi chương trình bắt đầu, các "nghệ sĩ" bị dồn hết lên gác. Các chị lớn sẽ chia nhau "make up" cho đám nhỏ. Chỉ có con gái mới được đánh phấn, vẽ mắt, chân mày, tô môi; con trai thì được xịt nước, chải tóc "chẻ bảy ba" mà thôi. Ấy vậy mà đám nhóc tụi tui náo nức quá trời! Đúng 3 giờ chiều, tất cả khán giả và nghệ sĩ đều đã an vị phía trước sân khấu. Chị Cúc với vai trò M.C. sẽ lên nói lời mở đầu và giới thiệu tiết mục đầu tiên. Ca sĩ thì hát theo tiếng kèn "Ác-mô-ni-ca-lược" và "trống muỗng". Ác-mô-ni-ca-lược được cấu tạo bởi một tờ giấy lịch Tam Tông Miếu mỏng quấn quanh một cây lược chải đầu. Nhạc công chỉ cần e-e trong miệng các nốt nhạc rồi thổi hơi xuyên qua kèn là sẽ tạo nên âm thanh tờ tợ như kèn Harmonica thiệt. Trống muỗng do chị hai tôi lấy hai chiếc muỗng cà phê bằng nhôm kẹp vào các ngón tay cái, trỏ và giữa của tay phải sao cho hai "đít muỗng" hướng vào nhau như một bộ gõ, sau đó lướt cặp muỗng lên các ngón tay trái theo điệu nhạc như bolero, habanera... Âm thanh buổi diễn sẽ được thâu lại trên băng cassette để làm kỷ niệm. Hồi xưa không có Karaoke, cũng không có camera hay điện thoại thông minh để ghi hình lại uổng ghê!
Chương trình văn nghệ thường bao gồm các tiết mục đại khái như sau (theo những gì tôi còn cố nhớ được):
- Giới thiệu chương trình - C.
- Quen nhau trên đường về (đơn ca) - V.
- Hè Về (thơ) - Th.
- Xa Vắng (hợp ca) - K. & T.
- Một Trăm Phần Trăm (hợp ca) - C. & B.
- Nó (đơn ca) - P.
- Những Bước Chân Âm Thầm (hợp ca) - N. & H.
- Ông Ninh, Ông Nang (vui) - H. & C.
- Trăng Tàn Trên Hè Phố (đơn ca) - M.
- Chân Trời Tím (đơn ca) C.
- Múa quạt - L., Tr., Th., K.
- Múa Lân - V. & T.
Sau khi hạ màn và dọn dẹp sân khấu, để tưởng thưởng cho các nghệ sĩ, các chị lớn đã chuẩn bị một thau sương xa, sương xáo, hột é vô cùng lớn với nước đá lạnh ngắt. Đã ơi là đã!
Bà ngoại lên chơi lúc nào cũng đem rất nhiều đặc sản miền Tây như là chuột đồng, chim, các loại khô, mắm cá đồng, Pa-tê gan do chính bà ngoại làm và đùi heo rút xương, dồn Pa-tê, bọc trong những túi lưới trông rất đẹp mắt.
Cơm tối thế nào cũng được thưởng thức các loại chim rô-ti như ốc cao, rỏ rẻ, chằng nghịch. Thích nhất là nhai cái đầu giòn rụm, béo ngậy! Chuột đồng miền Tây mập ú, chiên bơ lên ăn cơm với nước tương Maggi của Pháp dầm ớt cay, ngon hết sẩy! Rồi thì bánh bột tôm chiên cuốn xà lách, rau sống, thịt nai lúc lắc (các đơn vị rất thường tặng ba tôi và giao tận nhà thịt nai tươi, mỗi lần nguyên một cái đùi to)... Trước khi ăn tối ông ngoại nhất định sai tôi chạy qua nhà bà Sáu Bán Chuối mua một chai la de con cọp lớn 90ml ướp lạnh để ông và Cậu Tư lai rai khi ăn cơm, lại thêm bánh men, bánh gai hay bánh lỗ tai heo để tráng miệng. Bà Sáu thấy tôi mua bia là hỏi liền: "Ông ngoại mày lên phải hông? Sao hổng nói ổng mua hai chai luôn?". "Dạ, ông con uống ghiền, mỗi lần ăn cơm chỉ uống nữa chai với nước đá", tôi nhanh nhẩu đáp.
Tối đến phòng khách đầy ấp người ngồi xem tivi, nói chuyện, bàn tán xôn xao rất vui. Con nít cũng tụm năm, tụm ba nói dóc hay rượt đuổi, chơi giỡn cho tới gần 9 giờ tối. Sau đó thì phải đi ngủ vì sợ ồn ào phiền hàng xóm. Các anh chị dưới Cần Thơ lên thì ngủ ngon lành vì đi đường mệt nhưng tụi tôi thì cứ nôn nao chờ đến sáng nên trằn trọc mãi đến 3, 4 giờ sáng mới chợp mắt.
Đi "Cấp" (Vũng Tàu)
Bình minh, mọi người đặc biệt là bọn con nít, đã dậy sớm, vệ sinh cá nhân xong và chuẩn bị hành lý. Sau đó cả đoàn chất lên xe và chuẩn bị sẵn sàng. Cần nói thêm rằng trưởng đoàn là ông ngoại tôi, một người vốn xuất thân là thanh tra trong ngành giáo dục, có thói quen điểm danh từng người một cho đến khi đầy đủ thì mới ban lệnh xuất phát.
Khoảng 8 giờ sáng, xe hơi của chúng tôi đã có mặt trước tiệm "Hủ Tíu Tôm Cua". Tiệm lúc này không đông lắm nên chúng tôi dễ dàng chiếm hết mọi chỗ ngồi trong quán và ngoài sân. Sau khi thưởng thức hủ tíu, nhấm nháp cà phê sữa, đoàn xe khởi hành, Cấp thẳng tiến!
Xe lăn bon bon trên xa lộ Biên Hòa lúc mặt trời vẫn chưa lên cao, nắng sớm tưới lan trên những cánh đồng lúa trải dài hai bên đường. Địa hình chung phía bên phải của xa lộ một vùng đất khô cằn, có nhiều đá ong màu đỏ gỉ sét và vô số bụi cây thấp. Một hệ thống những rảnh nứt sâu độ 2 mét chạy ngoằn nghoèo kéo dài nhiều cây số. Thỉnh thoảng có mấy ngọn đồi vách đứng nơi mà ta thường thấy các binh sĩ ra đây tập leo núi và đu dây tử thần. Đây đó có thể thấy các sạp bán bưởi Biên Hòa hai bên đường. Cần nói bưởi Biên Hòa ngon nổi tiếng trước 1975. Đến gần khu vực Suối Tiên, tôi nhớ phía bên Đông Bắc của xa lộ có một dãy đồi thấp cây cối rậm rạp là nơi tọa lạc của một loạt các "gia trang" (kiểu khu du lịch sinh thái ngày nay). "Quỳnh Gia Trang" là nơi gia đình tôi hay đến các dịp cuối tuần hay lễ lạc để thư giản vì có quen biết. Mỗi gia trang có nhà mát, vườn cây ăn trái và một dòng suối nước trong vắt, mát lạnh vô cùng hấp dẫn. Tôi rất thích ngồi dưới những thác nước tí hon, ngâm mình trong dòng nước lạnh nhìn mây bay, gió chạy, quên hết mọi sự trên đời.
Một cảnh tượng khác trên xa lộ Biên Hòa vốn luôn gây sự chú ý từ mọi người, đó chính là Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa (Bây giờ đổi tên thành Nghĩa Trang Nhân Dân Bình An). Biểu tượng nổi tiếng nhất của nơi đây chính là bức tượng đồng "Thương Tiếc", lấy mẫu từ một người lính trong tư thế ngồi nghỉ mệt, súng đặt trên đùi, đôi mắt tư lự nhìn xa xăm (tượng này giờ dĩ nhiên chỉ còn trong ký ức). Hai bên xa lộ lúc này trải dài là đồng ruộng mênh mông bát ngát, những mái lá đơn sơ, mộc mạc. Đó đây là dăm bác nông phu chăm chỉ cày cuốc bên cạnh là hình ảnh đôi ba thớt trâu đang thong thả bước, vắt vẽo trên lưng là mấy đứa trẻ mục đồng. Khung cảnh đồng quê mới thanh bình làm sao!
Xa lộ có 4 làn, xe chạy rất đông nhưng rất nhanh và thoải mái. Nào là xe đò, xe ca, xe lam, xe du lịch, xe cam-nhông (xe tải), xe nhà binh lớn nhỏ của cả Việt Nam lẫn đồng minh tất cả đều bon bon lăn bánh không một trở ngại. Phía bên trái giờ ta đã có thể nhìn thấy núi Châu Thới và phía bên phải là núi Bửu Long. Không lâu sau đó, xe vượt qua ngã ba Tân Vạn và lên cầu Đồng Nai. Cầu dài không thua cầu Sài Gòn, sông rộng bát ngát, nước xanh trong như mắt mèo vô cùng đẹp.
Qua khỏi cầu Đồng Nai, phía bên phải là căn cứ Long Bình, hay còn gọi là tổng kho Long Bình (The Long Binh Post) bao bọc bởi xa lộ Biên Hòa và Quốc Lộ 15. Đây là trung tâm tiếp vận và là căn cứ quân sự lớn nhất của Hoa Kỳ tại Việt Nam, là nơi đặt bộ chỉ huy tối cao của quân đội viễn chinh Mỹ tại miền Nam Việt Nam USARV (US Army Republic of Vietnam).
Nằm cách Sài Gòn 20km và cách Biên Hòa 7km, căn cứ Long Bình có tầm vóc vô cùng kinh khủng. Tổng diện tích căn cứ là khoảng 24km2 (lớn hơn cả thành phố Cleveland bang Ohio của Mỹ!), bao gồm nhiều khu nhà kho riêng biệt và được bảo vệ hết sức cẩn mật bởi một lực lượng gồm 2.000 lính bộ binh, thiết giáp và quân cảnh. Long Bình bao gồm 3.500 tòa nhà và 180 dặm (290km) đường tráng nhựa nội bộ với số lượng binh sĩ đồn trú lên đến 60.000 người vào giai đoạn cao điểm năm 1969! Đi ngang qua tổng kho Long Bình không biết bao nhiêu lần và mấy lần vào tận bên trong, vậy mà chúng tôi lần nào cũng ngỡ ngàng, suýt xoa vì kích thước đồ sộ của nó. Cơ man nào là hàng rào, vọng gác, trụ điện, đường xá, nhà cửa, công sự, kho bãi...Nội từ lằn ranh xa lộ Biên Hòa vào đến bên trong đã có từ 7 đến 12 lớp rào kẻm gai với vô số lô cốt có đèn pha chiếu sáng. Có cả những ụ phòng thủ chất bằng bao cát và thùng phuy chứa đầy đất, bên trong là xe tăng M-48 hay pháo tự hành 155 ly M-109 nằm cố thủ với họng súng đen ngòm chỉa ra ngoài vòng rào. Quân cảnh Mỹ (MP) với cả quân khuyển (K-9) thường xuyên tuần tra con lộ vành đai trên các xe Jeep "lùn" M-151 (Mutt) có trang bị đại liên M-60 và nếu cần sẽ xuống xe để kiểm tra các vòng rào kẻm gai loại "razor wire" concertina. Một chi tiết lý thú về vòng rào kẻm gai ở các căn cứ Mỹ mà các bạn có thể chưa biết hoặc biết nhưng lâu quá nên đã quên, đó là vô số hộp lon bia và nước ngọt bằng nhôm được treo lủng lẳng khắp vòng rào. Hồi đó không có chuyện recycle lon kim loại như bây giờ nên lính Mỹ nãy ra sáng kiến tận dụng số hộp lon này. Sau khi uống xong lon bia hay Coca Cola, họ bỏ chiếc quai mở "pop-tab" vào bên trong lon rồi xỏ lổ móc dây kẻm đem treo lên đầy rào kẻm gai. Khi vòng rào concertina bị lay động hoặc dịch chuyển như khi có thú rừng chạy ngang hay đối phương cắt dây thép gai để chui qua rào, các lon nhôm sẽ bị rung lắc mạnh, các quai mở sẽ va đập vào thành lon nhôm tạo nên tiếng rung leng keng như tiếng chuông. Nghe động, lính gác sẽ chiếu đèn pha và xả súng ồ ạt vào khu vực nghi ngờ bị đột nhập. Chả ai biết phương pháp này có hiệu quả hay không nhưng nghe thì cũng hợp lý. Tôi chỉ biết khi xe chạy ngang các căn cứ Mỹ, các lon bia sẽ chiếu lấp lánh như đèn Giáng Sinh và phát ra tiếng leng keng như tiếng nhạc chuông trong bài hát "Jingle Bells" làm lòng tôi thấy vui vui.
Một hình ảnh ấn tượng khác của căn cứ Long Bình chính là bãi đáp trực thăng nằm giữa bộ chỉ huy Quân Đội Hoa Kỳ tại Việt Nam và vòng rào giáp xa lộ Biên Hòa. Bộ chỉ huy USARV gồm nhiều dãy nhà 2 tầng sơn màu trắng với cột cờ mang quốc kỳ Mỹ tung bay trên nền trời xanh làm nền cho bãi đáp khổng lồ màu xanh đen với hàng trăm trực thăng đủ loại từ UH-1 Heuy, AH-1 Cobra cho tới OH-6 Cayuse. Tất cả trực thăng đều mang màu sơn xanh lá cây sậm hay xanh olive còn mới tinh, trang bị vũ khí tối tân với phi công và kỹ thuật viên bao quanh. Thích nhất là các trực thăng vũ trang Cobra với hình dáng gồ ghề, mũi nhọn hoắc, sơn hình hàm cá mập chơm chởm răng nhọn. Khẩu đại liên 6 nòng Mini Gun trước đầu và dàn ống phóng rockets hai bên cánh trông hết sức "ngầu".
Đến ngã ba Tam Hiệp thì đoàn xe rẽ phải chuyển qua Quốc lộ 15 hướng thẳng Vũng tàu. Căn cứ Long Bình vẫn còn nằm phía bên phải đường xe chạy và kéo dài trong suốt nhiều cây số nữa. Từ đoạn này trở đi, thường xảy ra kẹt xe do đường nhỏ, xe đò, xe khách chạy nhiều hơn và các đoàn Công Voa (tiếng Pháp là convoi) nhà binh của Mỹ và VNCH thường xuyên chiếm đường. Đoạn này cảnh vật khá đơn điệu nên bọn nhóc chúng tôi thường "ngủ gà, ngủ vịt" suốt chặng.
Nằm cách Long Bình 25km về phía Đông Nam là quận Long Thành. Hai bên đường là các đồn điền trồng cây cao su xanh mát. Vô số các cây cao su được trồng ngay hàng thẳng lối vô cùng đẹp mắt. Mỗi cây đều có một cái chén nhỏ gắn vào thân cây để thu hoạch nhựa cây.
Mỗi lần đi ngang đoạn đường này mà đoàn xe chúng tôi đột ngột dừng lại, tấp vào lề là tôi giật mình tỉng giấc và thốt lên: "Long Thành". Ai cũng phấn khởi vì đã đi được nữa đường. Đây là lúc tất cả mọi người xuống xe để vận động cho giản gân, giản cốt. Ông ngoại và cậu Tư thường thả bộ đến mấy quầy bán thịt rừng ven đường để mua thịt heo rừng hay thịt mễn (một loại hươu có kích thước nhỏ bé). Ông ngoại và cậu Tư đều là dân "thợ săn tài tử" (săn để giải trí kiểu Safari) hồi còn trẻ nên có ít nhiều kinh nghiệm về việc lựa chọn thịt rừng. Hai người chỉ lựa mua về các miếng thịt to còn cả da và lông thú đi kèm để tránh việc người ta "treo đầu dê, bán thịt chó". Trong lúc đó, phía phụ nữ tranh thủ xin vào nhà dân đi vệ sinh, còn đám đàn ông con trai thì chọn nơi "non nước hữu tình" mà thực hiện quyền dân chủ (đám nhóc chúng tôi gọi là Democracy hay Đi-Móc-Ra-Xì). Xong xuôi đâu đó, ai nấy trở về nơi đỗ xe để dùng "cơm tay cầm". Số là trước khi đi, bà ngoại đã ghé qua tiệm Ngọc Cẩm mua cho mười mấy ổ bánh mì mới ra lò. Bây giờ ngoại tôi xẻ từng ổ, trét Pa-tê gan do chính ngoại làm, nhét vào mấy lát to pa-tê giò heo rút xương mua ở tiệm quen dưới Cần Thơ, thêm vào dưa leo, dưa chua và ớt, rắc chút muối tiêu, giao cho mỗi đứa nữa ổ để "đở dạ". Chao ôi, nó ngon ơi là ngon!!! Ăn xong, chúng tôi đi mua nước uống ở mấy xe bán nước giải khát bên đường, chúng tôi mê xá xị con cọp, limonade, bạc hà, cứ hai đứa chia một chai, ông ngoại bao hết!
No nê rồi, ta lại lên đường. Lần nào cũng vậy, cứ gần đến chùa "Đại Tòng Lâm" là bị kẹt xe! Xe ứ đọng trên một quãng đường dài mấy cây số. Có nhiều khi nguyên nhân là do xe quân sự bị bắn tỉa hay có đánh nhau trong cánh rừng xung quanh chùa. Đại Tòng Lâm nằm cách trung tâm thị xã Vũng tàu độ 32km trên một khu đất rộng hàng trăm mẫu. Ngày xưa tôi nhớ nhìn từ đường lộ vào chỉ thấy một bải cỏ xanh rì hai bên một con đường đất đỏ chạy sâu vào phía rừng cây, đầu đường có một tấm bảng to đề chữ "Đại Tùng Lâm". Trên bãi cỏ, cách lộ 15 chừng 50m là một tượng xi măng của Quán Thế Âm Bồ Tát cao độ 7m, tay cầm bình nước Cam Lồ và nhành dương liễu, chân đạp trên đầu rồng. Ngày xưa chỉ quan sát thấy vậy thôi chứ chúng tôi không biết chùa thật sự lớn cỡ nào vì chưa bao giờ có dịp ghé thăm chùa trong thời chiến do tình hình bất an.
Nhớ có một lần bị kẹt xe ngay trước Đại Tòng Lâm do có đánh nhau bên trong. Quốc lộ 15 phút chốc trở thành một bãi đậu xe khổng lồ. Một đơn vị líng VNCH nằm án ngữ hai bên con đường đất dẫn vào chùa và xung quanh tượng Phật Bà Quan Âm. Có một ông quân cảnh Mỹ (MP) da đen cao lêu nghêu có gần 2m xuất hiện, bắt mọi người xuống xe tìm chỗ nấp. Bên ngoài khung cảnh hổn loạn, xe đò, xe du lịch bất động trên đường, tất cả mọi người đều nằm rạp dưới con mương cạn bên lề đối diện để tránh đạn. Chúng tôi nấp đằng sau mấy chiếc xe nhà mình, không sợ mà lại còn hết sức háo hức. Súng nổ vang phía sau chùa và binh sĩ có đáp trả lẽ tẽ. MP Mỹ bất chợt hối thúc một số tài xế di chuyển xe của họ để tạo một khoảng trống trước lối vào chùa. Rồi thì một đoàn mười mấy chiếc thiết vận xa M-113 xuất hiện trên đường tiến về phía con đường đất đỏ. Trên nóc mỗi chiếc M-113, ngoài chỉ huy và xạ thủ đại liên 50 còn có nhiều binh sĩ Mỹ to lớn, mặt mày đỏ gay, có người còn ngậm điếu thuốc, tay cầm lon bia (Budweiser? PBR? Coors? Schlitz?). Họ đội mũ sắt ngụy trang có gắn đủ thứ linh tinh, người mang đầy đạn, tay lăm lăm súng trường tấn công M-16, đại liên M-60, hay phóng lựu M-79, mình khoác áo giáp cổ cao tận gáy nhưng không kéo fermeture mà mở bung ra, lại có mấy ông chỉ mặc một chiếc áo thun hay ở trần trùng trục, mồ hôi nhể nhại. Bất ngờ từ xa có tiếng động cơ máy bay càng lúc càng to. Hai chiếc AH1 Skyraider của KQVNCH (VNAF) bay lướt qua thật thấp ngay trên đầu chúng tôi. Tôi ngước lên và thấy rõ lườn tàu ám khói đen và lem luốc vô số những vết dầu nhớt vàng khè. Bom và rocket treo đầy dưới cánh trông rất gồ ghề. Phi cơ băng qua khỏi Quốc lộ 15 thì 4 khẩu đại bác 20mm trên máy bay khai hỏa. Tôi có thể nghe một thứ âm thanh ồn ào, hỗn tạp bao gồm tiếng động cơ khu trục, súng nổ, tiếng lính Mỹ reo hò thích thú, tiếng đàn ông trầm trồ, tiếng đàn bà la hét, tiếng con nít khóc, đúng là một trải nghiệm có một không hai! Cái âm thanh đó lại càng khuếch đại to hơn khi máy bay trút bom xuống bìa rừng, bom nổ tung, lửa khói bốc lên cao. Phi tuần đánh bom xong, rời đi là lúc đoàn thiết vận xa M-113 của Mỹ tiến về hướng khu rừng phía sau Đại Tòng Lâm. Giao tranh không quá dữ dội và kết thúc khá nhanh chóng. Khoảng một tiếng đồng hồ sau, yên tĩnh trở lại. Quân cảnh Mỹ lại ra hiệu cho mọi người trở về xe của mình và tiếp tục di chuyển.
Đến Bà Rịa là đã thấy núi non đằng xa. Núi lớn Vũng Tàu được anh em chúng tôi đặt cho biệt danh "Tai Thỏ" vì có 2 giàn ra-đa khổng lồ trên đỉnh núi, bắt đầu xuất hiện mờ mờ nơi chân trời. Mùi gió biển mằn mặn ngập kín không gian. Chúng tôi rất thích thú quan sát cánh rừng đước xanh um trong làn nước mặn . Rất nhiều trẻ em ăn mặc lam lũ, tay chân lấm bùn đang ngồi dọc hai bên đường rao bán các xâu "cua đào", là loại cua ẩn trong các miệng hang nằm sâu dưới lớp sình lầy của rừng đước. Một số xe chở khách dừng lại ở đây vì có người muốn mua cua. Riêng chúng tôi vẫn đi tiếp.
Xe qua cầu Rạch Dừa là đã gần đến Vũng Tàu. Vượt qua "Ngã Tư Giếng Nước", đoàn xe tiếp tục đi băng qua sân bay VT, chạy một đoạn dài về hướng có đài ra-đa sừng sửng trên đỉnh núi lớn. Con đường chấm dứt ngay trước cổng chính của trường Thiếu Sinh Quân. Quẹo trái trên đường Lê Lợi, chạy thẳng một hơi xuống ngay bãi trước, xe chúng tôi quẹo phải trên đường Quang Trung chạy dọc bãi trước, qua Lê Văn Duyệt. Qua khỏi Bạch Dinh (Dinh Ông Thượng), đi một đoạn đường ven núi dài độ 3km, tương đối hoang vu, chỉ lác đác một số biệt thự kiểu mới và nhà nghĩ kiểu motel, chúng tôi đến Bãi Dâu, bãi biển ưa thích nhất của ông bà ngoại và gia đình tôi. Đoàn chúng tôi "check-in" tại một trong các nhà nghỉ (motel) dọc theo Bãi Dâu, thường có bãi đậu xe riêng và những dãy nhà trệt dạng căn hộ.
Người dân địa phương còn gọi bãi Dâu là bãi Vũng Mây hay bãi Mây do ngày xưa có rất nhiều cây mây rừng mọc ở đây. Chúng tôi luôn chọn bãi dâu do vẽ đẹp hoang sơ và sự yên tĩnh của nó. Nó như một vịnh nhỏ tương đối kín gió do có các mỏm đá lớn nhô ra ngoài biển ở hai đầu bãi. Con đường tráng nhựa nhỏ nhắn chỉ một làn xe cho mỗi bên, uốn lượn quanh co trên ghềnh đá cheo leo, một bên là núi lớn với cỏ cây xanh , một bên là các bãi biển nhỏ xinh với vô số các gộp đá xen giữa những triền cát trắng mịn màng. Nếu bạn muốn lánh xa phố thị ồn ào và các bãi tắm lớn đông đúc, không địa điểm nào lý tưởng hơn bãi Dâu. Gia đình tôi thỉnh thoảng cũng đi nghĩ mát ở Bãi Dứa (giữa đường bãi Trước và bãi Sau) vì nguyên do như trên. Tuy nhiên bãi Dứa gió nhiều và lưu lượng xe cộ qua lại tương đối cao đã làm giảm bớt sự yên bình của nó.
Nhà nghỉ nơi chúng tôi lưu trú nằm trên một triền dốc cao với bãi đậu xe riêng và lối ra vào kiểu "drive-through". Một hàng phượng vĩ nở hoa đỏ rực, cung cấp bóng mát cho hai dãy phòng trệt xinh xắn với kiến trúc tân kỳ và thanh lịch. Nơi đây không phải sang trọng gì nhưng cũng đủ để cho chúng tôi trải nghiệm sự thoải mái và thư giãn cần thiết cho kỳ nghỉ.
"Unpack" mọi thứ xong, người lớn ngồi hóng gió trên mấy chiếc ghế mây ngoài hàng ba trong khi đám con nít chúng tôi thay đồ tắm vào và chạy ngay xuống bãi biển. Tắm táp đã đời rồi thì trở về dãy nhà tắm công cộng của nhà nghỉ để xối sạch lại bằng nước ngọt. Bây giờ thì đã bắt đầu thấy đói bụng.
Khoảng 5 giờ chiều, đại gia đình nhét hết vào xe hơi rồi hướng về phía bãi trước. Chỉ cần đi vài trăm mét là đã đến "quán quen" của ông ngoại mà chúng tôi gọi đùa là "Quán Ông Già" hay "Quán Chùm Ruột". Quán nằm bên vệ đường gần một khúc quanh thơ mộng, phía trước có mấy cây chùm ruột to, đơm đầy trái chín, đằng sau là vách đá cao thẳng đứng nhô ra biển. Chủ quán là một ông lão ngoài 70 và có vẽ rất thân với ông ngoại. Trong lúc chúng tôi ngồi ngắm biển trong tiếng sóng vỗ rì rào thì ông ngoại bắt đầu gọi món.
Thực đơn của ông ngoại tôi bắt buộc phải có một món canh và một món mặn. Đặc biệt ở Vũng Tàu, canh phải là canh chua cá dứa hay cá đuối và món mặn phải là tôm thẻ lớn kho rim hay còn gọi là "tôm kho tàu". Ông ngoại giữ vững chế độ ăn uống này cho đến hết kỳ nghỉ. Món chính "order" xong, ai muốn gọi gì thì cứ gọi, ông bao hết. Mọi người hay kêu mực xào chua ngọt, mực dồn thịt chiên, cá ngộ chiên xốt cà, cá lưỡi trâu chiên giòn, cá hồng nấu mẵn, nghêu xào lá quế, ghẹ rang muối, ba rọi xào mắm ruốc (mắm ruốc Bà Giáo Thảo Vũng tàu ngon hết xẩy!)...
"Cơm no rượu say" rồi đại gia đình lại lên xe đi ra bãi trước ngắm hoàng hôn. Lúc này mặt biển lăng tăng sóng, phản chiếu ánh tà dương màu đỏ cam rực rở tạo nên một khung cảnh đẹp nảo nùng. Khi màn đêm buông xuống, thủy triều rút ra xa chừng hai mươi mét làm lộ ra một bãi biển to lớn lấp lánh ánh lân tinh xanh rờn. Chúng tôi hòa vào dòng người dạo chơi trên bải cát ẩm ướt. Tôi thích thú khi nhìn thấy những con sao biển và sứa biển trôi dạt vào bờ. Ngoài khơi xa hàng chục con tàu viễn dương bỏ neo gần cửa biển Cần Giờ, thắp đèn điện sáng choang hệt như một thành phố nổi. Đèn pha hải đăng chậm rãi quét qua bầu trời đêm đầy sao càng làm tăng vẻ tưng bừng của phố biển.
Đi dạo mỏi cả chân, chúng tôi bắt đầu thấy khát nước. Bãi trước có nhiều quán cà phê và giải khát dọc đường Quang Trung. Hai hàng cây bàng trên vĩa hè lá reo xào xạc trong gió lộng. Ngồi quanh những chiếc bàn gỗ nhỏ dưới gốc bàng, chúng tôi ung dung thưởng thức các món chè hay sâm bửu lượng mát lạnh. Có lần ngồi dưới gốc bã đậu, trái nó nổ tung, mảnh rơi lả chả xuống hè phố. Anh Tr. con cậu Tư lượm mấy miếng đem về. Anh rất thích dùng dao khắc mảnh trái bã đậu thành hình những chú cá heo xinh xắn. Anh dùng mồ hôi đánh bóng hình khắc khiến nó trở nên đen bóng vô cùng đẹp!
(Mảnh trái bả đậu khô tự nó đã trông rất giống hình các chú cá heo, chỉ cần khắc thêm vây rồi đánh bóng lên là sẽ có một mặt đeo dây chuyền DIY tuyệt đẹp. Các anh hay dùng dây thẻ bài để làm dây đeo.)
Các Kiosque nằm trên đường Quang Trung, bãi trước ban đêm lên đèn sáng choang như chào mời du khách khắp nơi đến với Vũng tàu. Tại đây bày bán đủ loại quà lưu niệm (souvenir) làm từ vỏ sò, vỏ ốc, tôm hùm, đồi mồi như lược, trâm cài tóc, kẹp tóc, kính mát gọng đòi mồi, hình các chú chim cánh cụt, người tuyết, thuyền bườm, tranh cẩn xà cừ, màn cửa làm từ vô số vỏ ốc tí hon đủ vân, đủ màu...
Khoảng 9 giờ tối, chúng tôi lại kéo hết lên xe, chạy về nhà nghỉ. Mọi người đã mệt nhoài, đi ngủ thôi! Đêm hôm đó tiếng sóng biển rì rào như tiếng hát ru đưa chúng tôi chìm dần vào giấc điệp.
... Cũng lại là tiếng sóng nhưng lần này hòa lẫn với tiếng chim hót vang từ phía núi sau nhà nghỉ đã đánh thức chúng tôi. Bọn con trai nhẹ nhàng mở cửa, lẻn ra ngoài hàng ba. Trời chỉ mới hừng sáng còn ửng màu đỏ cam. Tôi ưởn ngực, hít một hơi đầy phổi cái không khí trong lành của biển. Gió biển mang đậm đà hơi nước chen lẫn mùi muối mặn đầu môi khiến tôi cảm thấy khoan khoái làm sao!
Chúng tôi băng ngang con đường nhỏ, đi xuống ghềnh đá men theo mấy bậc thang để xuống mé nước. Giờ này nước đang lớn, xóng vỗ ầm ầm vào các gộp đá. Vì trời còn tương đối lạnh, chúng tôi quyết định tập thể dục trên hai nền nhà bỏ hoang xây bằng đá núi màu nâu ngả vàng ngay sát bải cát.
Sau đó, chúng tôi chạy bộ dọc theo đường đèo để luyện sự dẻo dai và bền bỉ. Ba tôi nói trong nhà binh cái này gọi là chạy để "dégraisser" (chạy cho tan mở thừa, cho thon gọn lại).
Lúc chúng tôi quay trở về thì người lớn trong nhà đều đã dậy hết và đang thay đồ để chuẩn bị đi ăn sáng. Ông ngoại đợi chúng tôi sẵn sàng là tuyên bố liền: "Sáng bét rồi, đi ăn sáng bây ơi! Thằng Tư, chạy ra "quán Ông Già". Điểm tâm thường chỉ ăn nhẹ, bánh mì, trứng gà ốp-la, cơm rang, mì xào, uống cà phê sữa. Rồi thì quay về bãi dâu tiếp tục tắm biển. Đói bụng lại ra "ông già" ăn trưa. Rồi lại về tắm, tắm đã đời, tắm hoài không biết chán. Rồi lại ra "ông già" ăn tối...Tối lại lội xuống bãi trước, đi ăn sâm bửu lượng... Sau chừng ba ngày nghỉ dưỡng theo thời khóa biểu này, đoàn chúng tôi thường chia ra hai, ba nhóm mỗi nhóm một xe, đi theo những lịch trình khác nhau. Ăn sáng không thay đổi, nhưng sinh hoạt buổi sáng và buổi trưa thì sẽ tùy sở thích riêng. Cánh phụ nữ thường thích đi chợ mua đồ về nấu ăn hay mướn chủ nhà nghỉ nấu món dùm. Ông ngoại thỉnh thoảng bảo cậu Tư chở đi thăm một số địa điểm thân quen ở Vũng tàu vì khi còn đương chức ông từng nghỉ hè ở Cấp mỗi năm. Chúng tôi thì hay đòi chú Bạc (hay chú Đức, chú Nhạc) tài xế của ba chở đi vòng quanh núi lớn, núi nhỏ, đi bến đá, bến đình, đi ra bãi Sau tắm vì ở đây đông người và có sóng to, tha hồ "nhảy sóng". Đại gia đình nhất định phải đi "Thích Ca Phật Đài" một hai lần, đi Long Hải tắm biển một lần. Thỉnh thoảng buổi chiều mẹ tôi sẽ nhờ chú Bạc chạy xuống cảng Bến Đá để mua ghẹ dĩ nhiên là tụi tôi cũng sẽ quá giang theo chơi. Chú thường mua 2, 3 bao cát to đầy ghẹ rồi sau đó ghé chợ Bến Đình mua bánh mì, bia và nước ngọt. Tối đó cả nhà sẽ ăn tối ngay trên hàng ba trước dãy nhà nghỉ. Bọn nhóc chúng tôi trải giấy báo xuống gạch Chủ nhà nghỉ giúp luộc ghẹ trong những nồi nước to rồi trút vào các thau lớn để trên sàn. Ghẹ luộc chín màu đỏ cam, nóng hổi, thơm lừng chấm với muối tiêu hay muối ớt chanh ngon không thể tả! Vừa chấm bánh mì vừa uống chai Coca Cola hay bia con cọp thì không còn gì bằng! Cứ thế gia đình tôi ăn uống và chuyện trò rôm rả cho tới 7, 8 giờ tối. Rồi lại chạy ra bãi trước đi dạo, ăn chè, ngắm biển, ngắm đèn...
Sau này biết ra có một con đường đằng sau chợ Vũng tàu cứ tối đến là người ta bày đủ loại chè ra bán. Mỗi bà coi tới bốn, năm nồi chè bốc khói nghi ngút. Nào là chè thưng, đậu xanh, đậu đen, đậu trắng, táo sọn, trôi nước, chí mà phủ... Dĩ nhiên chúng tôi ủng hộ liền! Mọi thứ cứ bày ra mặt đường, người mua cứ xà xuống ghế cóc, ghế đẩu, ngồi ăn.
Ăn sáng, ăn trưa thì có khi ở Cấp lâu ngày, chúng tôi ngán "quán ông già", bèn chạy xuống khu vực chợ Vũng tàu kiếm phở, mì, hủ tíu ăn đở. Phở Vũng tàu ăn ngon, chúng tôi luôn xin thêm nước béo, kêu thêm giò-chéo-quẩy hay cơm nguội và thêm một thau xí quách khổng lồ. Tôi thích ngày xưa họ đựng tương đen và tương đỏ trong mấy cái thố xành có nắp đậy, về sau họ xử dụng tô nhựa có nắp đậy và muỗng múc màu cam tươi cho tương đỏ và màu nâu cà phê sữa cho tương đen.
Thỉnh thoảng để thay đổi không khí, chúng tôi leo núi hay picnic. ngay phía sau nhà nghỉ là một hàng rào lưới B-40 có một cánh cổng sắt nhỏ dẫn ra một con đường mòn leo lên Núi Lớn. Mới đầu là các bậc thang xi măng, sau là các tảng đá được ghép thành bậc cho khách dễ leo. Lên cao nữa chỉ còn là đường mòn cỏ cây rậm rạp chen lẫn các tảng đá núi khổng lồ. Chúng tôi thích thú bẻ các buồng chuối rừng, nhản rừng, mản cầu để chơi thôi chớ trái xấu, nhỏ xíu chẳng có gì để ăn. Tôi thích picnic dưới bóng cây, nhấm nháp bánh mì, pa-tê, rồi dùng ống nhòm nhà binh của ba quan sát biển và cảnh vật xung quanh. Con đường cheo leo quanh núi lớn với kích thước nhỏ hẹp và nhiều ổ gà, ổ voi, nhất là đoạn Sao Mai, Bến Đá. Đây là đoạn đường mà tối khuya, chúng tôi hay đòi chú Bạc chở đi "thám hiểm". Chú thường lao xe Jeep hết tốc độ qua các ổ gà cho xe nhảy tưng lên cao vì chú biết chúng tôi thích bị bay bổng lên rồi rớt rầm xuống ghế đôi khi u đầu vì đập vào thanh sắt trên nóc xe. Đau thì có đau nhưng bọn con trai chúng tôi rất thích loại cảm giác mạnh này.
Trại Úc
Năm 1966, quân đội hoàng gia Úc Đại Lợi RAA (Royal Australian Army) xây dựng Căn Cứ Hậu Cần số 1 (1st Australian Support Compound) dọc bãi biển phía Đông Nam sân bay Vũng Tàu, nằm kế bãi sau tức bãi Thùy Vân. Đây cũng là một bãi tắm lý tưởng gồm nhiều đồi/đụn cát và các hàng cây dương chạy dài suốt nhiều cây số dọc theo bãi biển cát trắng thơ mộng.
Năm 1973 binh sĩ Úc rút khỏi Việt Nam. Quân đội Hoàng Gia Úc bàn giao căn cứ này lại cho tiểu đoàn 18 tiếp vận, thuộc Sư đoàn 18 bộ binh QLVNCH quản lý. "Chú Nghĩa", từng là đồng sự của ba được thuyên chuyển về trông coi nơi đây, lúc này được dùng làm trại "Dưỡng Quân" của Sư đoàn 18.
Hè 73 chúng tôi có dịp ghé thăm chú, thím tại nhiệm sở mới. Đại gia đình chúng gồm hơn 20 người gồm cả gia đình dưới miền Tây lên chơi, đã được vợ chồng chú chiêu đãi nồng hậu và săn sóc chu đáo.
Chổ nghỉ ngơi rộng rãi, tiện nghi. Buổi trưa hôm đó, bọn con nít chúng tôi háo hức lăn tròn xuống những đồi cát mịn màng, chạy băng qua khu rừng dương xuống ngay bãi biển cát trắng dài nhiều cây số. Dọc theo mé nước một thảm vỏ ốc đủ sắc màu như trong truyện thần tiên! Bạn có biết không? Tuy là phần kéo dài của bãi Sau nhưng bãi Dương giống như một thế giới khác. Một bức tường rào kẻm gai chạy từ trên đất liền xuống tận dưới mực nước biển nên bên phía chúng tôi là một bãi biển thiên đường hoang sơ, không một bóng người, chỉ có chúng tôi với trời xanh bao la và đại dương mênh mông sóng nước. Tắm biển đả đời xong, chúng tôi chạy bộ về căn cứ, tắm lại nước ngọt rồi thay đồ chuẩn bị ăn tối. Tiệc tối gồm tôm, cua, ghẹ, sò huyết, mực, cá chiên, canh chua, cà-ri Chà (món này cay và đặc biệt ngon vì chú, thím là người gốc Ấn), bia, nước ngọt uống phủ phê. Buổi tối được tổ chức trong một Bar rượu, từng là câu lạc bộ sĩ quan Úc, nằm trên một đồi cát lộng gió. Ngoài ra còn có rượu mạnh, dàn âm thanh chất lượng cao hát nhạc du dương, đèn màu xanh đỏ, chớp tắt, có sàn nhảy, bàn bi-da, phóng phi tiêu... Đại gia đình chúng tôi có một đêm vui chơi thỏa thích.
Sáng đến, mặt trời vừa mọc, chúng tôi lại ra biển tắm rồi kéo nhau ra hồ nước ngọt trong căn cứ để bơi lội. Điểm tâm xong, không làm phiền chủ nhà thêm nữa, đại gia đình chúng tôi chia tay để di chuyển đến nhà nghỉ quen thuộc ở bãi Dâu. Đây đúng là một trải nghiệm đáng nhớ.
Kỷ niệm vui đi Cấp
Cúp điện
Có năm đó, không hiểu sao khu nhà nghỉ bị cúp điện. Cả nhà tập trung ra ngoài hiên ngồi nhâm nhi trà nóng, nghe ông ngoại tôi kể chuyện săn bắn đường rừng và cậu Tư kể chuyện ma. Dưới ánh đèn dầu và ánh nến vàng vọt câu chuyện của ông và cậu lại càng sống động như đang diễn ra trước mắt. Cho nên dù bị cúp điện chúng tôi đã có một đêm tuyệt vời. khuya đó chú Bạc cho hay chú thấy có mấy bóng người khả nghi xuất hiện gần nơi chúng tôi ở. Suốt đêm chú ngủ trong một góc khuất gần chiếc xe Jeep, trong tay lăm lăm khẩu M-16 để canh gác phòng khi bất trắc. Riêng ông ngoại đi đóng và khóa tất cả cửa sổ vì sợ có người lạ đột nhập. Sáng hôm sau như lệ thường chúng tôi thức sớm ra sân hít thở thì nghe tiếng cười của ông ngoại. Ông đã dậy tự lúc nào đang đứng trong một góc khuất ngoài hiên. Ông chỉ tay về hướng chúng tôi cười lớn: "Tụi bây đứa nào đứa nấy đều có râu đen thui". Chúng tôi bỡ ngỡ nhìn lại ông. Lỗ mủi ông có hai vệt bằng ngón tay đen xì như lọ nghẹ chạy dài xuống hai bên mép như râu hát bội. Anh Trực con cậu Tư đáp lại: Ai vẽ râu cho ông vậy??? Ông ngoại chạy vào bồn rữa mặt nhìn vào gương rồi ông phá lên cười làm mấy người ngủ chung phòng đều giật mình. Mọi người ngơ ngẩn nhìn ông ngoại, nhìn chúng tôi rồi nhìn lẫn nhau. Mọi ngưởi đều ôm bụng cười ngặt nghẽo. Thì ra tối qua, do đóng hết cửa sổ mà ai cũng hít khói đèn dầu khiến cho cái mặt như vẽ râu hát bội!
Chùm ruột, muối ớt
Có một lần chúng tôi ăn trưa ở quán "Ông Già". Chúng tôi ăn xong trước nên chạy ra sân chơi vì người lớn còn ngồi lại tán dóc. Thấy trưa vắng người, chúng tôi bẻ trộm chùm ruột của ông chủ quán vừa ăn vụng vừa chọi nhau tung tóe. Chợt "ông già" nhìn ra cửa sổ thấy mọi việc. Lát sau ông ngoại tôi xuất hiện nơi cửa chính, ông chủ quán đứng phía sau cách ông độ ba bốn thước quan sát tình hình. Ông ngoại vừa la lớn, vừa quát mắng tụi tôi: "Đứa nào bẻ chùm duột của ông chủ??? Tao mà biết được, tao tán cho một bạt tai thất kinh! Tụi bây có học hành đàng hoàng mà hư quá! Tụi bây.......Tôi nhìn vào quán thấy "ông già" đã bỏ đi vào bếp. Ông ngoại lúc này vẫn tiếp tục la rầy nhưng mắt ông cứ nháy nháy tụi tôi. Hai tay ông vừa làm bộ chỉ trỏ, vừa tuốt từng chùm trái chùm ruột chín trên cành nhét đầy vào hai chiếc túi áo to đùng trên bộ đồ phóng viên bốn túi của ông. Ông ngoại cao 1,82 mét, to lớn như Tây nên ông "càn quét" mấy nhánh chùm ruột khá dễ dàng. Sau khi đã "la mắng" chúng tôi xong, ông vào tính tiền để đi về. Ông gọi ông chủ quán ra xin lỗi vì các cháu ông phá quá. Xong, ông xin ông chủ một chén muối ớt. Ông chủ hơi ngạc nhiên nhưng cũng hồ hởi mang một bọc muối ớt ra đưa cho ông ngoại. Lúc xe chúng tôi chạy ra khỏi quán độ chục thước, ông ngoại vét túi đưa hết chùm ruột cho chúng tôi, cả bịt muối ớt nữa. Ông cười nói: "Tụi bây bị tao la cũng đáng, ai biểu ngu quá! Còn cái thằng cha đó, quen biết mà mấy trái chùm ruột cũng tính. Mà kệ, ở đây có mình chả nấu là tao ăn được. Mai mốt có thèm, nói tao xin thằng chả thử, chả cho chớ gì đâu!" Mà thiệt mấy lần sau ông ngoại xin là ổng kêu con ổng hái cho liền, có điều cho ít lắm, nhưng kệ cũng đã thèm, đói con mắt thôi mà!
Kể tới đây tôi lại bị "bí" đề tài vì đã lâu quá rồi, tạm thời chỉ nhớ tới đây. Thôi đành hẹn sau này sẽ bổ xung thêm.
Xin chào.